Ðây là tiền, hiểu theo nghĩa thông thường là “Đồng tiền thông dụng để mà mua bán” (Đại Nam quốc âm Huỳnh Tịnh Của). Thời xưa tiền đúc bằng đồng, có giá trị tốt hơn tiền kẽm, có lẽ vì vậy nên mãi đến nay ta vẫn gọi là Đồng (đồng bạc) vì thói quen. Thời phong kiến, vua còn ban thưởng những loại “tiền” vô cùng quí giá cho các vị công thần (không có lỗ chính giữa, gọi kim tiền, ngân tiền), một kiểu huân chương, có thứ nặng đến gần một lượng.

Người Việt đã dùng tiền từ lâu và đã dùng tiền giấy để thử nghiệm (thời Hồ Quí Ly). Thời chúa Nguyễn (trước Nguyễn Hữu Cảnh) đã dùng tiền để mua bán nhưng thuế đất vẫn chú trọng thu bằng hiện vật (lúa). Phải chăng vì muốn được “chắc ăn”, phòng khi đói kém, có tiền mua gạo không ra. Chúa Nguyễn, nối chí Nguyễn Kim, trên danh nghĩa, vì vậy mà vẫn suy tôn nhà Lê, dòng vua chính thống từ lâu đời. Do đó, các chúa Nguyễn không đúc tiền riêng, nhưng đã là kinh tế hàng hóa, ở mức độ thấp vẫn phải dùng tiền. Đọc Phủ biên tạp lục của Lê Quí Đôn, ta thấy các chúa đã linh động mua tiền cổ bên Trung Hoa không còn tiêu dùng, sẵn có niên hiệu Tường Phù, Thuần Hóa đem ra tiêu xài, rồi phỏng theo dáng ấy mà đúc lại, phỏng theo nét cũ của tiền Trung Hoa nhưng mỏng hơn. Lại cho người đến đảo Ma – Cao (Áo Môn – bấy giờ người Bồ Đào Nha đang khai thác) để mua loại kẽm đặc biệt đem về đúc tiền. Họ Mạc ở Hà Tiên, được chút ít quyền tại thị trấn của mình cũng đúc ra liên tục nhiều loại tiền. Tham khảo bài của Nguyễn Anh Huy, dịp hội thảo khoa học 310 năm Phú Xuân – Huế (1997), ta gặp nhiều chi tiết cụ thể hơn.

Vì nhu cầu thị trường nội địa và giao thương với nước ngoài, các chúa Nguyễn đã linh động giải quyết nhanh, có kiểm soát. Trở lại vấn đề hơi hóc búa: Lúc Tây Sơn và Nguyễn Ánh tranh chấp nhau ở đất Gia Định vào những năm cuối thể kỷ 18, ở đây đã dùng loại tiền nào? Nay ở các hiệu tư nhân bán đồ cổ, ta gặp khá nhiều đồng tiền kẽm với niên hiệu đời Đường, đời Tống bên Trung Hoa, tính lại xưa hơn ngàn năm nhưng chưa ắt bên Trung Hoa còn bảo quản! Nên hiểu đa số vẫn là tiền đúc mà các chúa Nguyễn đã mô phỏng, tạm dùng vì chưa được là triều đại chính thống. Tại những vùng tranh chấp giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, ở đồng bằng sông Cửu Long (xưa gọi đất Ba Giồng, Tam Phụ), khi rút lui nhanh, tránh truy kích, ta gặp nhiều loại tiền này.

Các loại tiền tệ trong dân gian ở đất Gia Định
(Tranh minh họa qua Fanpage Thú Chơi Sách)

Ở Hà Tiên, họ Mạc đã đúc tiền kẽm đa số ghi niên hiệu Thái Bình nhưng ít ai chú ý sưu tầm. Cũng ở Hà Tiên, phía Hòn Chông, gần hòn Phụ Tử, còn hang Tiền, hiểu là nơi sau này phát hiện nhiều tiền kẽm đóng lại thành khối. Và ở Sóc Trăng còn địa danh rạch Trường Tiền, có thể hiểu là nơi Nguyễn Ánh đã bố trí dạng xưởng nhỏ “dã chiến” để đúc tiền xài tạm bợ lúc chiến tranh dai dẳng, từ bên Xiêm về, tiền bạc không có lập tức để tiêu xài. 300 năm Sài Gòn dính líu hữu cơ với sự phát triển của cảng biển nay là Hội An (phố cổ Hội An). Có thể nói không sai cho lắm: Hội An là tiền thân của cảng Sài Gòn, nơi đã có những loại tiền phương Đông và phương Tây, với trị giá không rõ rệt. Thật ra từ xưa người phương Đông vẫn thích “vàng thoi, bạc nén”. Sài Gòn mặc nhiên chịu ảnh hưởng thương mại, với tiền tệ giống như Phú Xuân và Hội An. Nhưng đến cuối thể kỷ 19, thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn rồi cả Nam kỳ, Sài Gòn bị tách ra khỏi nước Việt Nam. Cảng Hội An còn đó, kém trù mật trong khi Sài Gòn trở nên phồn thịnh. Với chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, các đô đốc hải quân Pháp đã mở cảng rất sớm, một cảng quốc tế với thủ tục thuế khóa đã áp dụng cho châu Âu ngay khi tướng Nguyễn Tri Phương đang mở rộng phạm vi của thành Chí Hòa (Phú Thọ). Từ trước đồng bạc Con Cò của Mêhicô do Tây Ban Nha khống chế đã phổ biến cùng với sự hiện diện của quân đội Tây Ban Nha (liên quân của Pháp). Tiền này khá nặng, trong thực tế có giá trị cụ thể so với tiền kẽm được ưa thích.

Anh ham chi đồng bạc con cò,
Bỏ cha bỏ mẹ theo phò Lang Sa

Trên thị trường, vì đồng bạc Con Cò (thật ra là Con Ó) không có đơn vị nhỏ, muốn mua sắm lặt vặt phải chặt ra làm tư, làm tám (gọi góc tư, góc tám, hoặc gọi cắt tư, cắt tám (cắt ra). Tuy cắt ra nhưng quả thật bằng bạc với tỷ lệ cao, túng cùng có thể cắt chia ra làm đồ trang sức. Người Pháp nắm ưu thế với đồng Franc. Vì tiền kẽm còn thông dụng trong dân gian, thực dân tạm quy định một đồng Franc của Pháp tương đương với một quan (600 đồng tiền kẽm) vì vậy gọi là quan (tiền Việt).

… Pháp đem qua Sài Gòn đồng quan bằng vàng, ít tiêu dùng. Bấy giờ, trong dân gian đồn đại rằng khi ra trận, hoặc khi càn quét nghĩa quân, giặc đem đồng Franc hoặc đồng bạc Mêhicô (đã cắt ra) mà rải ra trên đường đi, vì tham lam, nhiều người xúm nhau ra lượm, lắm khi chúng rải trong bụi rậm, phải mất nhiều thì giờ để tìm, vì vậy mà giặc thắng trận dễ dàng.

Để tiết kiệm tiền bạc, Pháp nghĩ ra biện pháp độc: dùng thuốc Phiện để đổi lúa gạo khi xuất khẩu. Giới mại bản tự do, cảng mở tự do nên tiền bạc nước ngoài lưu hành dễ dàng ở Sài Gòn. Thí dụ đồng tiền gọi Lá Bài “từ Hương Cảng” (đã là nhượng địa cho Anh), lại còn đồng Ru pi (roupie), dân gian gọi dông dài là “cà ru pi” từ Ấn Độ. Đồng đô la Mỹ xuất hiện, nhưng trong dân gian gần như không ai biết, cũng như đồng bảng Anh (livre sterling) chưa được nghe trong dân gian.

Theo cơ chế của thực dân ở Sài Gòn, người nước ngoài kể luôn Hoa kiều, Ấn kiều được quyền đem ra các loại tiền mình thích khi trở về quê quán. Ở Sài Gòn, theo đường Đồng Khởi ngày nay, nơi người nước ngoài thường lui tới, nhiều người Ấn Kiều (phần lớn mang quốc tịch Pháp) sống khấm khá với nghề đổi tiền nước ngoài ra loại tiền khác, hoặc đổi ra tiền Đông Dương.

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền,
Anh có thương em (thì) cho bạc cho tiền,
Đừng cho lúa gạo, xóm giềng cười chê.

Cô gái thích được tặng tiền giấy vừa gọn nhẹ, vừa kín đáo!

hoặc:

Thông ngôn, ký lục, bạc chục không màng,
Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay.

Lương bổng của công chức Việt hạng sang tuy là bạc chục (đổi ba lạng vàng) nhưng là tiền bằng bạc trắng, gẫm lại không chắc ăn bằng vàng. Nhớ lại thời xưa, nhiều vị điền chủ đi ra tỉnh để vay bạc của giới mại bản phải đem theo một tay thân tín để vác tiền, tiền đựng trong cái bao. “Tôi cho anh vay 20 đồng bạc trắng”, hiểu theo nghĩa đồng bạc thứ thiệt, không phải bạc giấy. Sau năm 1930, thay bản vị từ bạc ra vàng (Đông Dương Ngân hàng) nhưng trong thực tế, chưa thấy ai đem “giấy một đồng vàng đến ngân hàng đổi lấy vàng được”. Giới trung nông, phú nông thậm chí lớp nghèo thành thị hồi trước 1940 vẫn chưa hiểu rằng đồng bạc nếu chôn lâu ngày sẽ giảm giá. Thuở ấy, một người dân lao động, mà mang theo tấm giấy 20 (gọi giấy hoẵn, vingt) hoặc giấy xăn (cent: trăm đồng với hình cái bộ lư) thì bị bắt. Chỉ có kẻ trộm cướp mới có số tiền lớn như thế!

Đồng tiền làm hư hỏng luân lý và phong tục cổ truyền, làm hư hỏng luật lệ “ba trăm lạng bạc” đã là bước khởi đầu đau xót của Thúy Kiều. Lúc Pháp đến, sự diễn biến về thế lực vạn năng của đồng tiền được phản ánh trong câu hát đối đáp:

Gái:

Thân như đồng bạc đầu hình,
Lăng xăng dường buổi chợ, biết bởi mình vào đâu?

Trai:

Thân anh như tủ sắt khóa chặt mà lại để hờ,
Tóm thâu tiền bạc giấy tờ đồng tiền nào phải nghĩa, được nhờ thì anh cất vô!

Hoặc câu ca dao báo động:

Trai đường Mới xem tường không mới.
Gái Bến Thành gẫm lại không thành.
Hồi nào to nhỏ em anh,
Có xu có lúi mới đành nghĩa nhân!

(*) Đường Mới thời trước nổi danh về du đãng, nay là đường Huỳnh Tịnh Của, chợ Bến Thành.

Sơn Nam

Đăng lại từ Fanpage Thú Chơi Sách
Mời độc giả ghé thăm

Xem thêm:

Mời xem video: