Các bệnh viện ở nhiều nơi trên khắp nước Mỹ đã tái thực hiện quy định bắt buộc đeo khẩu trang vì các quan chức cho rằng đang có sự gia tăng số ca mắc Covid-19 và các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp khác.

GettyImages 1307297324 scaled
Người phụ nữ cầm tấm biển ‘Yêu cầu đeo khẩu trang’ trong một trận đấu thể thao ngày 15 tháng 3 năm 2021 tại Glendale, Arizona. (Ảnh minh hoạ: Norm Hall/Getty Images)

Cơ quan y tế NYC Health + Hospitals – điều hành các bệnh viện và phòng khám công ở Thành phố New York – đã thông báo rằng các quy định đeo khẩu trang sẽ được thực hiện lại tại các bệnh viện của họ.

“Do sự gia tăng các bệnh về đường hô hấp như COVID-19, cúm & virus hợp bào hô hấp (RSV) trong cộng đồng và bệnh viện của chúng ta, chúng ta phải quay trở lại việc đeo khẩu trang bắt buộc. Vui lòng đeo khẩu trang khi đến thăm chúng tôi!”, ban điều hành bệnh viện đã đăng trên mạng xã hội X, vào đầu tuần này.

Bài đăng có kèm theo hình ảnh các nhân viên y tế đeo khẩu trang.

Một bài đăng riêng của cơ quan NYC Health + Hospitals tuyên bố rằng “quy định đeo khẩu trang” đã được khôi phục tại cơ sở Jacobi ở Bronx vì “sự phổ biến của COVID-19 trong cộng đồng của chúng tôi”.

Bệnh viện và các cơ sở y tế trích dẫn dữ liệu gần đây của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) cho thấy sự gia tăng các trường hợp nhiễm COVID-19. Tuy nhiên dữ liệu lịch sử cho thấy mức tăng này tương đối nhỏ so với những năm trước. Tính đến ngày 16 tháng 12, theo dữ liệu của cơ quan y tế, có hơn 25.000 người hiện nhập viện vì COVID-19 trên khắp Hoa Kỳ, trong khi vào ngày 16 tháng 12 năm 2022, hơn 36.000 người phải nhập viện.

Quy định khẩu trang ở các khu vực khác

Trung tâm Y tế UMass Memorial ở Worcester, bang Massachusetts, xác nhận với truyền thông địa phương rằng họ sẽ đưa ra quy định bắt buộc đeo khẩu trang kéo dài một tháng cho nhân viên của mình, quy định có hiệu lực từ ngày 2 tháng 1 năm 2024. Tuy nhiên, bệnh nhân và người nhà sẽ không bắt buộc phải đeo khẩu trang.

Người phát ngôn của bệnh viện cho biết trong tuyên bố: “Những thay đổi này dự kiến sẽ có hiệu lực trong khoảng một tháng, sau đó sẽ được đánh giá lại dựa trên xu hướng hiện tại. Sức khỏe và phúc lợi của bệnh nhân, người nhà bệnh nhân và nhân viên là ưu tiên hàng đầu của chúng tôi”.

Hệ thống y tế Mass General Brigham ở Massachusetts cũng thông báo rằng họ sẽ khôi phục các quy định bắt buộc đeo khẩu trang vì COVID-19.

“Chính sách đeo khẩu trang của chúng tôi dựa trên tỷ lệ mắc bệnh hô hấp hiện tại trong cộng đồng của chúng tôi”, Mass General Brigham xác nhận trong một tuyên bố với truyền thông địa phương vào ngày 28 tháng 12.

Tại Delaware, hệ thống y tế TidalHealth đã thông báo vào ngày 28 tháng 12 rằng họ quy định bắt buộc đeo khẩu trang với tất cả những người đến thăm bệnh. Theo cơ quan này, quy định được đưa ra trong “nỗ lực bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất trong cộng đồng của chúng ta khỏi tiếp xúc gần gũi với những người có thể truyền nhiễm nhưng chưa có triệu chứng”.

Và tại bang Washington, hệ thống y tế Kaiser Permanente xác nhận với truyền thông địa phương rằng nhân viên làm việc trực tiếp với bệnh nhân phải đeo khẩu trang. Người phát ngôn của Kaiser, bà Linnae Riesen, nói với The Spokesman-Review rằng nhân viên của họ phải đeo khẩu trang nhưng bệnh nhân và người thăm bệnh không bắt buộc phải đeo.

Theo hướng dẫn của Kaiser Permanente: “Khẩu trang là không bắt buộc nhưng được khuyến khích đối với những bệnh nhân và người nhà không có các triệu chứng về hô hấp và đến thăm các khu vực có nguy cơ thấp trong các cơ sở y tế của chúng tôi”.

Các viên chức tại Hệ thống Y tế Beacon cho biết Bệnh viện Memorial và Elkhart General, nằm ở South Bend, Indiana, đang tái thực hiện các quy định đeo khẩu trang đối với người thăm bệnh, bệnh nhân và nhân viên, theo báo cáo địa phương. Đầu tháng Mười Hai, một số bệnh viện ở Pittsburgh, bệnh viện ở Boston và bệnh viện UW Health ở Illinois và Wisconsin cũng thực hiện các quy định đeo khẩu trang ở các mức độ khác nhau.

Nhiều quận của California trên khắp vùng Vịnh đã áp dụng quy định đeo khẩu trang cho nhân viên; bắt đầu từ tháng Mười Một và sẽ kéo dài đến cuối mùa xuân do dự đoán số ca bệnh về đường hô hấp sẽ gia tăng.

Cập nhật của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC)

CDC tuần trước đã đăng một bản cập nhật cho biết biến thể COVID-19 mới – JN.1, hiện chiếm gần một nửa tổng số ca nhiễm ở Hoa Kỳ. Hai tuần trước, số ca nhiễm JN1 chiếm khoảng 15% đến 29% tổng số trường hợp.

CDC cho biết JN.1 đang tiếp tục “gây ra tỷ lệ lây nhiễm ngày càng tăng và hiện là biến thể xuất hiện rộng rãi nhất ở Hoa Kỳ”, đồng thời lưu ý rằng chủng này hiện chiếm khoảng 39% đến 50% tổng số trường hợp nhiễm Covid-19.

Theo CDC, còn quá sớm để biết liệu JN.1 có gây ra sự gia tăng số ca lây nhiễm hoặc số ca nhập viện hay không. Tuy nhiên, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố riêng rằng JN.1 dường như không gây rủi ro cao so với các biến thể khác và liệt kê JN.1 là “biến thể được chú ý”.

WHO tuyên bố vào đầu tháng Mười Hai: “Sự lây lan của biến thể này dường như không làm tăng gánh nặng cho hệ thống y tế công cộng quốc gia so với các biến thể Omicron khác. Tuy nhiên, do sắp bước vào mùa đông nên cần lưu ý, SARS-CoV-2 và các mầm bệnh đồng lưu hành có thể làm trầm trọng thêm gánh nặng các bệnh hô hấp”.

Theo các cơ quan ý tế, những triệu chứng truyền nhiễm của JN.1 COVID-19 có thể bao gồm ho, đau họng, sốt và nhức đầu, cũng như đau cơ, mất vị giác hoặc khứu giác, sổ mũi, sương mù não, mệt mỏi, đau cơ và nghẹt mũi.

“Khi chúng tôi quan sát sự gia tăng của biến thể JN.1, điều quan trọng cần lưu ý là mặc dù nó có thể lây lan rộng rãi hơn nhưng hiện tại không có bằng chứng quan trọng nào cho thấy nó nghiêm trọng hơn hoặc gây ra rủi ro đáng kể cho sức khỏe cộng đồng”, ông John Brownstein, giám đốc Đổi mới (chief innovation officer) của Bệnh viện Nhi Boston, nói với ABC News vào tuần trước.

Anh Nguyễn, theo ET