Hương Mần Để là vùng đất xưa, nay bao gồm một số xã ở phía bắc huyện Vũ Thư (tỉnh Thái Bình) là xã Hiệp Hòa, Xuân Hòa, Song Lãng, Minh Lãng, Đồng Thanh, Tân Lập. Đây là nơi nổi tiếng “Ngoại Lãng sơn diện bách lý, thế thế khôi nguyên” (Ngoại Lãng ngàn dặm núi sông, đời đời có bậc khôi nguyên), bởi đời nào cũng có người đỗ đạt, thời nào cũng có người chiếm khôi nguyên, nơi đây vẫn còn lưu lại các thư tịch và nhiều giai thoại thú vị về các nhà khoa bảng.

Người đỗ thủ khoa trên đất Tống

Người đỗ đạt đầu tiên của hương Mần Để là Đỗ Đô từ thời nhà Lý. Theo sử sách ông theo cha mẹ đến sống ở làng Ngoại Lãng (nay là xã Song Lãng) thuộc vùng đất Mần Để. Ông cùng với Lý Thiên Tộ (sau này là vua Lý Anh Tông) là thiền sư thế hệ thứ tư của thiền phái Thảo Đường.

Năm 1066, nhà Tống tổ chức khoa thi Bạch Liên, đây là khoa thi cao nhất về Phật học. Đỗ Đô được cử đến tham dự, xuất sắc đỗ thủ khoa.

Các đời Vua khai quốc nhà Lý đều là những người tu luyện, các vị Vua đều dùng Phật Pháp giáo hóa dân chúng, giúp Xã Tắc ổn Định, Giang Sơn hùng mạnh, con dân nước Việt thời này cũng có phúc.

Đỗ Đô đỗ thủ khoa kỳ thi Bạch Liên trên đất Tống thì được Triều đình trọng dụng, vua Lý Thánh Tông cử làm quan văn đến chức Vệ Đại phu và ban pháp hiệu là Đạt Mạn. Sau này ông xin Vua cho xây dựng và được tu hành tại chùa Phúc Thắng tại quê nhà Ngoại Lãng.

chua phuc thang
Chùa Phúc Thắng – nơi Đạt Mạn thiền sư Đỗ Đô tu hành. (Ảnh: Báo Giáo dục & Thời đại)

Họ Đặng có nhiều bậc hiền tài thời Lý – Trần

Cũng ở Mần Để, xã Hiệp Hòa có Đặng Nghiễm vào thời nhà Lý, là người đỗ khai khoa cho cả trấn Sơn Nam. Năm 30 tuổi ông dự khoa thi năm 1185 thời vua Lý Cao Tông và đỗ Minh Kinh bác học, cao thứ hai (sau Bùi Quốc Khái).

Đến năm 55 tuổi thì ông cáo quan về quê dạy học, khai mở mạch văn chương cho làng mình mãi đến các thế hệ sau này. Ông có 3 con cháu đỗ đạt là Đặng Tảo, Đặng Diễn và Đặng Ma La. Trong đó Đặng Ma La là Thám hoa đầu tiên và là Thám hoa trẻ nhất trong lịch sử khoa bảng. (Xem bài: Thám hoa 13 tuổi của khoa thi độc nhất sử Việt)

dang nghiem
Tượng thờ Minh Kinh bác học Đặng Nghiễm tại đền thờ xã Hiệp Hoà. (Ảnh: Báo Giáo dục & Thời đại)

Còn Đặng Diễn có văn tài kiệt xuất, đứng đầu khoa thi năm 1232, được Vua yêu quý thường cho hộ giá theo mình. Ông được cử làm Tá thư Tri Quốc tử viên đào tạo nhân tài cho triều đình. Khi hơn 40 tuổi ông từ quan chọn con đường tu luyện ở Trúc Lâm Yên Tử.

Đặng Tảo thi đỗ Thái học sinh (tức tiến sĩ), làm quan tới Thừa hiến, rồi Nhập thị nội các kiêm Đông các Đại học sĩ cáo thụ Vân ý Vinh lộc đại phu, được phong tặng Cao Nghĩa thần.

Ngoài họ Đặng ra, hương Mần Để cũng nổi tiếng hay chữ vào thời kỳ Lý – Trần, như Đỗ Nguyên Chương người làng An Đề (nay là xã Hiệp Hòa), khoa thi năm 1314 đời vua Trần Minh Tông đỗ Thái học sinh, được cử làm Tri chế cáo ở Hàn lâm viện, giúp vua thảo chiếu văn bản. Sau đó ông giữ chức Đô kỵ úy, được Triều đình cấp Thực ấp lớn ở huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Năm 1336 làng An Để sửa chữa chùa Ông Lâu, Đỗ Nguyên Chương được mời viết văn bia, trong đó có bài Vịnh 16 câu. Sau này Lê Quý Đôn khen ngợi, xem là “văn chương ưu tú thời Trần”. Bài Vịnh và văn bia này vẫn còn đến nay. Sau khi ông mất, thôn Trung Quan làng Ngoại Lãng tôn làm Phúc Thần và thờ chung với Thành Hoàng của làng.

Trạng nguyên Đỗ Lý Khiêm và khoa thi kéo dài kỳ lạ nhất

Làng Ngoại Lãng còn nhiều nhân tài, điển hình như Trạng nguyên Đỗ Lý Khiêm thời nhà Lê. Sinh ra trong gia đình nghèo khó, ông cùng em trai giúp mẹ bán quán nước ven đường. Dù gia cảnh nghèo khó nhưng hai anh em đều ham học và có tiếng khắp vùng.

Đỗ Lý Khiêm dự khoa thi năm 1499 đời vua Lê Hiến Tông, đây là một kỳ thì khó khăn và kéo dài lâu nhất nhưng cũng không sao xác định được ai là Trạng nguyên.

Đỗ Lý Khiêm vượt qua kỳ thi Hương và Thi Hội, rồi vào đến kỳ thi cuối cùng là thi Đình. Khi chấm thi có hai bài rất nổi trội khiến các quan không thể xác định được bài nào hay hơn. Khi so phách thì mới biết hai bài này là của Đỗ Lý Khiêm và Lương Đắc Bằng.

Hai bài đều hay như nhau nhưng Trạng nguyên chỉ chọn một, Triều đình liền cho hai người làm thêm bài Ứng chế. Nhưng các quan khi chấm bài ứng chế đều thấy hai bài rất hay, lại lúng túng không biết bài nào hay hơn.

Vua liền cho hai người làm thêm bài “Bái mạng”, Đỗ Lý Khiêm nhận thấy Triều đình vất vả cho kỳ thi kéo dài, lại thấy Lương Đắc Bằng là người tài năng, xứng đáng là Trạng nguyên, nên ông không có ý so tài nữa, vì thế mà chỉ làm qua loa cho xong.

Vua xem bài thi thì biết Đỗ Lý Khiêm cố ý làm kém hẳn bài thi của mình, liền đưa cho Đắc Bằng xem. Đắc Bằng biết Đỗ Lý Khiêm cố ý làm kém bài để nhường Trạng nguyên cho mình thì cảm thấy xấu hổ, nói mình không xứng Trạng nguyên, và có ý nhường lại cho Đỗ Lý Khiêm.

Khoa thi năm 1499 trở thành khoa thi đặc biệt nhất khi cả hai người đỗ đầu đều nhường nhau Trạng nguyên và không muốn thi tiếp nữa. Các quan liền nghĩ ra một cách là vẽ vòng tròn trên sân rồng rồi cho 2 người tung quyển thi vào, quyển thi của ai gần tâm vòng tròn hơn sẽ là Trạng nguyên.

Kết quả quyển thi của Đỗ Lý Khiêm nằm trong vòng tròn, còn quyển thi của Đắc Bằng nằm ngoài vòng tròn. Thế là Đỗ Lý Khiêm đỗ Trạng nguyên, còn Lương Đắc Bằng đỗ thứ hai tức Bảng nhãn.

Bảng nhãn Lương Đắc Bằng sau này trở thành thầy dạy có tiếng, đào tạo được nhiều nhân tài, trong đó có Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Đỗ Lý Khiêm đỗ Trạng nguyên. Khoa thi sau em ông là Đỗ Oánh đỗ tiến sĩ, làm quan đến Thượng thư bộ Lễ.

Đỗ Lý Khiêm làm quan trải qua 4 đời Vua là Hiến Tông qua Túc Tông, Uy Mục đến Tương Dực. Đến thời vua Tương Dực ông dẫn đầu sứ đoàn sang nhà Minh giúp quan hệ hai nước tốt đẹp. Khi về vua Minh lại cử một đoàn sứ bộ đi theo đoàn đến Đại Việt.

Tuy nhiên khi đến Bằng Tường (Trung Quốc) thì gặp cướp, Đỗ Lý Khiêm bị trúng tên độc và mất trên đường về.

Dân làng Ngoại Lãng quê ông thương tiếc lập đền thờ và phong ông làm Phúc Thần. Trong đền thờ ông có ghi:

Cảnh Thống trạng nguyên vọng phiên sơn đẩu
Bằng Tường sứ tử tiết lẫm băng sương

Nghĩa là:

Đỗ Trạng nguyên năm Cảnh Thống danh vọng như núi cao, như Bắc Đẩu
Đi sứ tử tiết ở Bằng Tường, tinh thần khí tiết như sương trong

Em ông là Đỗ Oánh sau khi mất cũng được phong làm Phúc Thần làng Ngoại Lãng.

Tiến sĩ Doãn Khuê

Làng Ngoại Lãng còn có tiến sĩ Doãn Khuê nổi tiếng thời nhà Nguyễn, từ nhỏ đã có tư chất thông minh. Đến khoa thi năm 1834 thì đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân, làm quan qua các chức vụ khác nhau.

Sau đó ông được Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị cắt tặng cho vùng đất phía đông tại Sĩ Lâm thuộc bãi sa bồi bờ biển Đại An. Ông cùng con trai chiêu mộ dân nghèo đến nơi đây khai phá đất đai, lập làng dựng ấp. Ông xin miễn thuế giúp dân, lại lập kho “nghĩa thương” giúp dân lúc thiếu thốn.

doan khue
Lăng mộ Tiến sĩ Doãn Khuê tại quê nhà xã Song Lãng (Thái Bình). (Ảnh: Báo Giáo dục & Thời đại)

Năm 1847 ông cáo bệnh về quê dạy học. Ông có nhiều trò giỏi, đặc biệt là Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích trở thành lãnh tụ nghĩa quân trụ cột chống Pháp ở miền bắc.

Từ đường họ Doãn ở Song Lãng có đôi câu đối:

Địa xuất anh hiền, tiên Trạng nguyên Đỗ công cố địa
Gia truyền thi lễ, ngã Bảo công biệt tổ thế truyền

Nghĩa là:

Đất sinh hiền tài, trước có Trạng nguyên họ Đỗ
Truyền đời thi lễ, con cháu Thái Bảo Đại vương về đất này tiếp bước tiên tổ.

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video: