Đối với hầu hết các doanh nghiệp phương Tây hoạt động tại Trung Quốc, 2023 là một năm cực kỳ khó khăn. Đây không chỉ là do môi trường kinh doanh của Trung Quốc ngày càng xấu đi và sự gia tăng đáng kể các loại rủi ro khác nhau, mà còn là do các CEO đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan: Rốt cuộc là nên tiếp tục ở lại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới có tổng giá trị 18.000 tỷ USD, hay là rút lui hoàn toàn cho xong?

kinh te Trung Quoc 1
(Ảnh ghép từ ảnh của Shutterstock)

Các công ty và vốn nước ngoài lần lượt rời khỏi Trung Quốc

Vào tháng 11/2023, tập đoàn quản lý tài sản khổng lồ của Mỹ Vanguard Group và công ty tư vấn hiệu suất dựa trên cuộc thăm dò ý kiến ​​Gallup thông báo rằng họ sẽ đóng cửa hoạt động kinh doanh tại Trung Quốc và rút khỏi nước này.

Trước đó, Forrester, một công ty tư vấn thị trường tập trung vào tư vấn công nghệ, đã sa thải hầu hết các nhà phân tích địa phương và Tập đoàn Gerson Lehrman của Mỹ ban đầu dự định mở rộng hoạt động tại Trung Quốc trong năm nay, nhưng việc sa thải đã bắt đầu vào mùa hè.

Ngay cả trong lĩnh vực sản xuất phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc, các công ty hàng đầu như Apple, vốn đã tham gia sâu vào Trung Quốc trong nhiều thập kỷ, đang chuyển một số dây chuyền sản xuất của họ sang những nơi như Ấn Độ và Việt Nam.

Đây chỉ là một hình thu nhỏ về cách các công ty phương Tây đang chuẩn bị rời khỏi Trung Quốc…

Ông Matt Dollard là trưởng nhóm tư vấn quản lý và nhà phân tích cấp cao tại RSM US, một công ty tư vấn quản lý tập trung vào các công ty có thị trường tầm trung, ông có hơn 20 năm kinh nghiệm phát triển hoạt động kinh doanh ở nước ngoài cho các công ty đa quốc gia. Một phần ba các công ty tìm ông tư vấn để đến Trung Quốc đầu tư hoặc mở rộng kinh doanh ở đó. Ông nói với VOA rằng một công ty phụ tùng ô tô đang tìm kiếm sự giúp đỡ của ông để rút hoàn toàn khỏi Trung Quốc trong vòng 3 năm, mặc dù họ chưa thể tìm được nơi thay thế hoàn toàn Trung Quốc.

“Họ vẫn cần nguồn cung cấp nhiều sản phẩm trung gian và nguyên liệu thô từ Trung Quốc và họ hiểu điều đó, nhưng họ cảm thấy rằng việc tìm nguồn cung ứng một số sản phẩm đó bên ngoài Trung Quốc sẽ giúp họ yên tâm hơn và giảm bớt một số rủi ro mà họ lo lắng.” Ông cho biết, công ty hiện đang xem xét chuyển sang Ấn Độ hoặc Việt Nam và cuối cùng sẽ là Việt Nam.

Ông nói thêm, hầu hết các công ty hoạt động tại Trung Quốc đang bận rộn thực hiện các bước để “giảm thiểu rủi ro” hoặc phân tán rủi ro. Ông nói rằng ít nhất các công ty sẽ không tăng cường đầu tư vào Trung Quốc. “Nếu họ đã có nhà máy ở Trung Quốc để sản xuất sản phẩm, hầu hết họ sẽ quyết định gắn bó với nó, nhưng họ muốn phân tán rủi ro”.

Một cuộc khảo sát do The Conference Board công bố vào tháng 11 cho thấy, CEO của các công ty đa quốc gia ở Trung Quốc đang mất niềm tin vào nước này. Cuộc khảo sát được thực hiện trên 35 CEO của các công ty nước ngoài có trụ sở tại Trung Quốc, chủ yếu đến từ Mỹ và Châu Âu, cho thấy chỉ số niềm tin của họ ở Trung Quốc đã giảm từ 72 (của 6 tháng trước) xuống còn 54 (trong nửa cuối năm nay). Giá trị dưới 50 có nghĩa là nhiều người trả lời có quan điểm tiêu cực hơn là tích cực. Cơ quan này cũng nhận thấy rằng 40% CEO được khảo sát dự kiến giảm đầu tư vốn và gần như nhiều người dự kiến ​​​​sẽ cắt giảm việc làm trong 6 tháng tới, trong khi đó trong nửa đầu năm nay con tỷ lệ này chỉ 9%.

Một dấu hiệu khác cho thấy sức hấp dẫn của Trung Quốc đang suy giảm, đó là tính đến cuối tháng 9 năm nay, các công ty nước ngoài đã rút lợi nhuận khỏi Trung Quốc trong 6 quý liên tiếp, tổng trị giá hơn 160 tỷ USD. Dòng lợi nhuận tiếp tục chảy ra ngoài khiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc ghi nhận mức tăng trưởng âm trong quý 3, và là lần đầu tiên sau 25 năm. Theo dữ liệu do Cục Quản lý Ngoại hối Nhà nước Trung Quốc công bố vào ngày 3/11, nợ đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quý 3 là âm 11,8 tỷ USD, đây là giá trị âm hàng quý đầu tiên kể từ khi hồ sơ bắt đầu được ghi nhận vào năm 1998, nó cho thấy dòng vốn ra đã vượt quá dòng vốn vào 11,8 tỷ USD, cho thấy quy mô thoái vốn và thu hẹp quy mô kinh doanh cao hơn quy mô đầu tư mới.

Theo tính toán của Bloomberg dựa trên dữ liệu do Bộ Thương mại Trung Quốc công bố ngày 21/12, mức sử dụng đầu tư nước ngoài thực tế mới của Trung Quốc trong tháng 11 là 53,3 tỷ nhân dân tệ (xấp xỉ 7,5 tỷ USD), giảm 19,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là con số tồi tệ nhất kể từ khi đại dịch virus corona mới bùng phát vào tháng 2/2020. Một tuyên bố của Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết, lượng đầu tư nước ngoài thực tế từ tháng 1 đến tháng 11 năm nay là 1.040 tỷ nhân dân tệ, giảm 10% so với cùng kỳ năm ngoái.

“Căng thẳng địa chính trị khiến hoạt động đầu tư vào Trung Quốc trở nên có chút đáng lo ngại, chúng tôi thấy điều đó trong rất nhiều dữ liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là vào năm 2023, đúng là đã xuất hiện tình trạng rơi xuống vực thẳm,” ông Matt Dollard của công ty RSM US nói. Ông cho rằng căng thẳng địa chính trị giữa Trung Quốc và các nước phương Tây đã trở thành yếu tố áp đảo, khiến các công ty phương Tây quyết định rời khỏi Trung Quốc, và nhiều công ty hơn nữa sẽ cân nhắc rời khỏi Trung Quốc.

Đồng thời, các quỹ nước ngoài cũng đang đẩy mạnh việc rút tiền khỏi thị trường chứng khoán Trung Quốc Đại Lục. Tờ Financial Times đưa tin, hơn 3/4 số vốn nước ngoài chảy vào thị trường chứng khoán Trung Quốc trong 7 tháng đầu năm, đến nay đã rời khỏi thị trường. Các nhà đầu tư toàn cầu đã bán hơn 25 tỷ USD cổ phiếu loại A của Trung Quốc kể từ tháng 8 năm nay thông qua Kết nối chứng khoán Thượng Hải – Hồng Kông và Kết nối chứng khoán Thâm Quyến – Hồng Kông. Đây là dòng vốn chảy ra ngoài lớn nhất và kéo dài nhất thông qua cơ chế Kết nối chứng khoán Thượng Hải – Hồng Kông kể từ khi ra mắt vào tháng 11/2014.

Tờ Wall Street Journal dẫn báo cáo do Goldman Sachs công bố ngày 12/11 cho biết, trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị nghiêm trọng, nhà đầu tư toàn cầu có thể bán tháo thêm 170 tỷ USD cổ phiếu Trung Quốc. Tờ báo dẫn số liệu chính thức của Trung Quốc ngày 7/12 cho biết, tính đến tháng 10 năm nay, lượng nắm giữ cổ phiếu và trái phiếu Trung Quốc của các nhà đầu tư tổ chức đã giảm hơn 31 tỷ USD. Đây là mức giảm ròng lớn nhất kể từ khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2001.

Địa chính trị căng thẳng và môi trường kinh doanh xấu đi ở Trung Quốc

Bà Anna Ashton, giám đốc dự án quan hệ doanh nghiệp Trung Quốc tại Eurasia Group, một công ty tư vấn rủi ro chính trị toàn cầu, nói với VOA rằng sự kết hợp giữa căng thẳng địa chính trị và các yếu tố nội địa khác ở Trung Quốc đã khiến các công ty phương Tây hoạt động tại Trung Quốc phải đối mặt với nhiều bất ổn.

“Với những thay đổi về bối cảnh địa chính trị và căng thẳng với Mỹ, những lo ngại liên quan đến an ninh quốc gia đã xuất hiện, khiến Bắc Kinh phải thay đổi các quy tắc kinh doanh theo một số cách, khiến các công ty nước ngoài phải đối mặt với nhiều bất ổn hơn trong môi trường này. Bên cạnh đó có một thực tế là tốc độ tăng trưởng kinh tế trở lại bình thường sau khi kết thúc chính zero-COVID chậm hơn dự kiến, sự suy thoái của nền kinh tế Trung Quốc cũng là một nguyên nhân chính khác dẫn đến môi trường hoạt động khó khăn đối với các công ty nước ngoài,” bà nói.

Phòng Thương mại Châu Âu tại Trung Quốc và Phòng Thương mại Mỹ tại Thượng Hải, đại diện cho gần 2.000 công ty châu Âu và Mỹ, đã công bố báo cáo môi trường kinh doanh tương ứng tại Trung Quốc vào tháng 9. Hai báo cáo chỉ ra rằng môi trường kinh doanh của Trung Quốc ngày càng khó thích nghi đối với các công ty phương Tây. Mặc dù bề ngoài Bắc Kinh vẫn coi trọng đầu tư nước ngoài nhưng họ đặt an ninh quốc gia lên hàng đầu. Gần 2/3 số công ty châu Âu ở Trung Quốc tin rằng luật pháp và quy định ngày càng phức tạp của Trung Quốc khiến việc nhận ra các cơ hội kinh doanh trở nên khó khăn.

Bà Elisabeth Braw, người phụ trách chuyên mục của tạp chí Chính sách đối ngoại và cộng tác viên cao cấp của Mạng lưới Lãnh đạo Châu Âu, nói với VOA rằng Trung Quốc là một môi trường rất khó khăn và ngày càng khó khăn đối với các công ty phương Tây, và vấn đề là tính khó đoán của nó khiến các công ty lo lắng rằng họ có thể trở thành mục tiêu bị trả thù từ Chính phủ Trung Quốc bất cứ lúc nào.

Bà nói: “Bất kỳ công ty phương Tây nào cũng có thể trở thành mục tiêu của nhiều cách đánh khác nhau của Chính phủ Trung Quốc, không chỉ liên quan đến luật phản gián (của Trung Quốc) mà còn có khả năng trở thành mục tiêu đại diện cho các công ty hoạt động ở Trung Quốc bất cứ khi nào Chính phủ Trung Quốc muốn trả đũa các chính phủ phương Tây, bởi vì một công ty thì có thể làm được gì? Họ không thể là được gì.”

Bà Elisabeth Braw từng viết trên tờ Wall Street Journal rằng môi trường kinh doanh khó khăn của Trung Quốc được thể hiện qua việc các nhà bảo lãnh rủi ro chính trị gần như đã ngừng viết các chính sách mới cho các công ty hoạt động tại Trung Quốc.

Trong số 60 công ty bảo hiểm cung cấp bảo hiểm rủi ro chính trị, chỉ một số ít vẫn cung cấp bảo hiểm như vậy ở Trung Quốc và với những hạn chế rất nghiêm ngặt kèm theo, đây là một thay đổi đáng kể. Các hợp đồng bảo hiểm vẫn đang được cung cấp cho Trung Quốc có thể sẽ không quá 50 triệu USD, giảm đáng kể so với khoảng 2 tỷ USD vài năm trước. Hầu hết các công ty lớn kinh doanh ở Trung Quốc đều có tài sản trên 50 triệu USD.

Bảo hiểm rủi ro chính trị rất phổ biến trước khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Bảo hiểm này bảo vệ doanh nghiệp khỏi nhiều sự kiện chính trị, từ tước quyền sở hữu đến can thiệp chính trị, cho đến đảo chính và chiến tranh, mang lại cho các công ty sự tự tin để đầu tư và hoạt động ở những thị trường không phải là nền dân chủ tự do.

“Luật phản gián” mới sửa đổi của Trung Quốc chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7. Trung tâm An ninh và Phản gián Quốc gia Mỹ đã đưa ra cảnh báo cho các công ty Mỹ trước khi luật này có hiệu lực, nói rằng luật phản gián mới của Trung Quốc có định nghĩa mơ hồ về hoạt động gián điệp, trao cho Chính phủ Trung Quốc nhiều quyền hơn để thu thập và kiểm soát dữ liệu của công ty, vốn ban đầu được coi là các hoạt động kinh doanh. Ví dụ các hoạt động nghiên cứu thị trường đều có khả năng hoạt động phạm pháp.

Các quan chức của Trung tâm cho biết luật sửa đổi mở rộng định nghĩa về gián điệp từ bí mật và tình quốc gia nước sang bất kỳ “tài liệu, dữ liệu, tài liệu hoặc vật dụng nào khác liên quan đến an ninh quốc gia”. Luật cũng áp đặt các hạn chế xuất nhập cảnh mới đối với những người được coi là gây ra mối đe dọa cho an ninh quốc gia và gây ra rủi ro pháp lý cho các công ty, nhà báo, học giả và nhà nghiên cứu Mỹ.

Bà Ashton của Eurasia Group cho biết phiên bản mới của “Luật phản gián” “Luật bảo mật dữ liệu” của Trung Quốc nghiêm ngặt hơn, mặc dù chưa có tác động rõ ràng nhưng đã có tác động vô hình. “Đối với các doanh nghiệp Mỹ và các công ty nước ngoài khác hoạt động tại Trung Quốc, có rất nhiều lo ngại về việc thực thi luật này. Hiện luật này rộng hơn và mơ hồ hơn, cùng với việc thực thi các quy định về dữ liệu, có ý nghĩa pháp lý”. Bà nói: “Việc các công ty có thể chia sẻ dữ liệu xuyên biên giới như thế nào và nó được bản địa hóa như thế nào. Việc thực thi không thể đoán trước khiến họ không chắc chắn về cách đảm bảo tuân thủ và cách thực hiện nó một cách hiệu quả về mặt chi phí.”

Vào tháng 3 năm nay, chính quyền Trung Quốc đã bắt giữ 5 nhân viên Trung Quốc tại văn phòng Bắc Kinh của công ty Mintz Group của Mỹ vì nghi ngờ hoạt động kinh doanh bất hợp pháp, và bắt giữ một nhân viên của Công ty Astellas Pharma của Nhật Bản vì nghi ngờ hoạt động gián điệp. Tính đến thời điểm hiện tại, 5 nhân viên Trung Quốc bị giam giữ của Mintz Group vẫn chưa được thả ra.

Hiện tại, các công ty ở Mỹ và Châu Âu không còn khuyến khích các giám đốc điều hành mang theo thông tin rời khỏi Trung Quốc, dù đó là một số thông tin điều hành công ty hàng ngày. Họ thậm chí không cho phép các giám đốc điều hành doanh nghiệp ở Trung Quốc mang theo máy tính xách tay hoặc thậm chí cả điện thoại thông minh khi rời khỏi đất nước.

Do sự chồng chất của những yếu tố này, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Gina Raimondo cho biết khi bà đến thăm Trung Quốc vào tháng 8 rằng nhiều công ty Mỹ đã nói với bà Trung Quốc “không phù hợp để đầu tư vì rủi ro đã trở nên quá lớn”. Bà nói rằng các công ty Mỹ đang phải đối mặt với những thách thức mới, bao gồm cả “các khoản tiền phạt khổng lồ mà không có bất kỳ lời giải thích nào và những sửa đổi không rõ ràng đối với Đạo luật Phản gián của Trung Quốc, đã tác động đến cộng đồng doanh nghiệp Mỹ; các cuộc đột kích vào các công ty để lục soát, đây là một cấp độ thách thức hoàn toàn mới mà chúng tôi phải đối mặt, chúng tôi cần giải quyết vấn đề này.”

Vào ngày 15/11, nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã tới San Francisco để tham dự bữa tối với các lãnh đạo doanh nghiệp Mỹ trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Nhiều tập đoàn khổng lồ của Mỹ đã tham dự bữa tối, trong đó có Tim Cook (CEO của Apple) và Larry Fink (CEO của BlackRock), cùng nhiều giám đốc điều hành công ty đa quốc gia lớn khác của Mỹ.

Tuy nhiên, trước sự thất vọng của cộng đồng doanh nghiệp Mỹ, trong bài phát biểu được cho là nhằm xoa dịu cộng đồng doanh nghiệp Mỹ này, ông Tập Cận Bình đã không đề cập cụ thể đến thương mại và đầu tư, cũng như không trấn an các CEO có mặt về môi trường kinh doanh đang xấu đi của Trung Quốc, không hề nhắc đến việc liệu Bắc Kinh có đưa ra các chính sách mới tiếp theo hay không. Điều này làm thất vọng một số doanh nhân Mỹ.

Các biện pháp mới của Trung Quốc để thu hút nhà đầu tư nước ngoài và sự lạc quan thận trọng của nhà đầu tư nước ngoài

Kể từ cuộc gặp ngày 15/11 giữa nguyên thủ quốc gia Mỹ và Trung Quốc, phía Trung Quốc đã đưa ra một loạt biện pháp tiếp cận thị trường ưu đãi, bao gồm phê duyệt liên doanh bị trì hoãn từ lâu với MasterCard và sau đó phê duyệt nhà sản xuất chip Broadcom của Mỹ mua lại nhà phát triển phần mềm doanh nghiệp VMWare. Ngày 24/11, Trung Quốc công bố chính sách miễn thị thực đơn phương kéo dài một năm cho công dân 6 nước: Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha và Malaysia.

Những bước nhỏ này được hoan nghênh nhưng không đủ để giải quyết những lo ngại sâu xa của cộng đồng doanh nghiệp về các chính sách không ổn định, kiểm soát thương mại và đột kích, điều tra và giam giữ các công ty phương Tây dưới danh nghĩa an ninh quốc gia của Trung Quốc.

“Tôi nghĩ rằng trong vài tuần qua, Trung Quốc đang nhận ra rằng trong chuyến thăm Mỹ của ông Tập Cận Bình, ông ấy đã yêu cầu một số cơ quan đảm bảo rằng Mỹ sẽ đầu tư vào Trung Quốc dễ dàng hơn và chúng tôi đang thấy một số cam kết.” Ông Dollard, một nhà phân tích cấp cao tại RSM US, nơi tư vấn cho các doanh nghiệp, cho biết: “Điều vẫn còn phải xem là liệu những thay đổi này có thực sự dẫn đến việc các công ty quyết định rằng có lẽ bây giờ là lúc để tái thâm nhập và đầu tư vào Trung Quốc hay không”

Bloomberg đưa tin, trích dẫn một người giấu tên quen thuộc với vấn đề này, rằng các nhà lãnh đạo doanh nghiệp châu Âu hiện tin rằng Bắc Kinh đang vượt ra khỏi khuôn khổ tấn công quyến rũ và thể hiện mong muốn chân thành thực hiện lời hứa của mình. Các nhà điều hành doanh nghiệp có được cách nhìn nhận này từ những cuộc trò chuyện gần đây với các quan chức Chính phủ Trung Quốc.

Bà Anna Ashton, giám đốc Chương trình Quan hệ Doanh nghiệp Trung Quốc tại Tập đoàn Eurasia, lạc quan một cách thận trọng về tình hình trong năm tới.

“Tôi nghĩ có lý do để lạc quan một cách thận trọng về quỹ đạo của quan hệ Mỹ – Trung sau cuộc gặp của ông Tập, bởi vì giọng điệu của cuộc gặp nhìn chung mang tính xây dựng và xét theo nhịp độ của các cuộc gặp quan chức cấp cao trong vài tháng qua, điều đó rõ ràng là ưu tiên của các nhà lãnh đạo hai nước, hơn nữa chúng tôi nghĩ thực tế là hai nền kinh tế vẫn phụ thuộc nhiều vào nhau và rất gắn bó với nhau,” bà nói.

Các báo cáo mới nhất nói rằng Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường sẽ tham dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos, Thụy Sĩ, từ ngày 15 đến 19/1 và dẫn đầu một nhóm lớn các quan chức chính phủ cấp cao để chứng minh sự cởi mở của Bắc Kinh đối với doanh nghiệp. Diễn đàn Kinh tế Thế giới thu hút nhiều nhà lãnh đạo chính trị và kinh doanh toàn cầu hàng năm.

Theo Lâm Phong, VOA