Phố Wall đã mất đi sự nhiệt tình trước đây đối với việc đầu tư vào Trung Quốc. Dòng chảy đầu tư đã bắt đầu cho thấy sự rút ròng khỏi cổ phiếu và trái phiếu Trung Quốc trong một thời gian dài. Ngoài sự thù địch kinh tế và thương mại ngày càng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc, các nhà đầu tư Mỹ cũng có lý do riêng để tránh xa thị trường Trung Quốc.

Chung khoan Trung Quoc
Ảnh minh họa thị trường chứng khoán của Trung Quốc. (Ảnh: Philipe Lopez/AFP/Getty)

Một loạt dữ liệu rất có sức thuyết phục. Theo báo cáo của Cục Quản lý Ngoại hối Nhà nước Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), dữ liệu cho thấy trong năm 2018, ngay cả sau khi tổng thống lúc đó là ông Donald Trump bắt đầu áp dụng thuế trừng phạt đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc, các nhà đầu tư Mỹ vẫn mua ròng thêm 17 tỷ USD cổ phiếu và trái phiếu Trung Quốc. Ngay cả khi xảy ra dịch COVID-19 vào năm 2020, dòng vốn vào ròng vẫn tăng lên 36 tỷ USD. Dòng vốn này sẽ tiếp tục được duy trì trong năm 2021, với dòng vốn đổ vào ròng khoảng 20 tỷ USD. Nhưng đến năm 2022, đầu tư ròng vào danh mục đầu tư gần như đã dừng lại, với dòng vốn chảy ra ròng tính đến tháng 10/2023 (giai đoạn mới nhất có dữ liệu) khoảng 31 tỷ USD.

Mô hình tương tự xuất hiện trong số liệu thống kê đầu tư tư nhân. Prequin, một công ty tư vấn tư nhân theo dõi các dòng vốn đầu tư thay thế, cho biết các quỹ đầu tư tư nhân tập trung vào Trung Quốc đã thu hút tới 140 tỷ USD vốn trong năm 2019, trong đó phần lớn đến từ các cá nhân và quỹ hưu trí. Đến năm 2021, con số này đã giảm xuống còn 93 tỷ USD và từ đầu năm 2023 đến tháng 10, dòng vốn này đã giảm xuống chỉ còn 4 tỷ USD.

Chứng khoán Trung Quốc đã gặp khó khăn trong năm 2023, do thiếu các biện pháp kích thích mạnh mẽ và sự không chắc chắn về quy định trong giám sát quản lý (của chính quyền ĐCSTQ) dẫn đến tình trạng bán tháo nghiêm trọng. Các quỹ nước ngoài đã rời khỏi thị trường chứng khoán Trung Quốc trong 5 tháng liên tiếp trong 12 tháng qua, thời gian kéo dài liên tục lâu nhất trên thị trường chứng khoán Trung Quốc được ghi nhận.

Financial Times tính toán dựa vào số liệu của Tính toán từ Kết nối chứng khoán Thượng Hải – Hồng Kông và Kết nối chứng khoán Thâm Quyến-Hồng Kông Chứng khoán, cho thấy kể từ khi đầu tư nước ngoài ròng vào thị trường chứng khoán Trung Quốc đạt đỉnh 235 tỷ nhân dân tệ (~ 33 tỷ USD) vào tháng 8 năm ngoái, hiện đã giảm 87%, chỉ còn lại 30,7 tỷ nhân dân tệ. Điều này cho thấy khoảng 90% vốn nước ngoài chảy vào thị trường chứng khoán Trung Quốc trong năm 2023 đã bị rút ra.

Tính đến tháng 12 năm ngoái, chỉ số CSI 300 đã giảm 12%, khiến nó trở thành một trong những chỉ số chính hoạt động kém nhất thế giới và đang trên đà giảm năm thứ ba liên tiếp.

Trong khi chính quyền Biden vẫn giữ nguyên các mức thuế thời chính quyền Trump đối với Trung Quốc, hạn chế xuất khẩu chip cao cấp sang Trung Quốc và hạn chế khả năng đầu tư vào công nghệ Trung Quốc của người Mỹ, thì mối quan tâm chính của các doanh nghiệp và nhà đầu tư Mỹ về thị trường Trung Quốc không liên quan gì đến chính sách của Mỹ.

Điều khiến Phố Wall lo lắng nhất là số nợ khó đòi lớn và ngày càng tăng của Trung Quốc. Nhiều nhà đầu tư Mỹ nắm giữ nợ từ các nhà phát triển bất động sản Trung Quốc, gần như tất cả đều có nguy cơ vỡ nợ. Những tổn thất liên quan và khả năng thua lỗ đương nhiên khiến các nhà đầu tư này và những người khác giữ thái độ cẩn thận khi đầu tư vào Trung Quốc. Nợ xấu của các nhà phát triển bất động sản cũng ảnh hưởng đến toàn bộ ngành tài chính Trung Quốc.

Ngoài ra, chính quyền địa phương của Trung Quốc còn nợ quá nhiều. Mặc dù rất ít người Mỹ có quyền tiếp cận trực tiếp các khoản nợ này, nhưng họ lo ngại rằng bất kỳ khoản đầu tư nào của Trung Quốc đều có thể bị ảnh hưởng nếu việc trả các khoản nợ này bị đình chỉ hoặc trì hoãn. Ở mức tầng diện phổ biến hơn, các nhà đầu tư Mỹ lo ngại rằng tỷ lệ nợ xấu, bất kể nguồn gốc của nó, sẽ hạn chế khả năng tài chính Trung Quốc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy lợi nhuận từ các khoản đầu tư của Trung Quốc.

Tệ hơn nữa, việc Bắc Kinh ngoan cố theo đuổi các chính sách Zero-COVID và đàn áp toàn diện đối với doanh nghiệp tư nhân, đã gây tổn hại nghiêm trọng đến niềm tin và ảnh hưởng đến những bộ phận năng động nhất của nền kinh tế. Hậu quả của những chính sách này có thể thấy rõ qua sự suy thoái kinh tế vào năm 2023. Do nhu cầu trì trệ, giá tiêu dùng sẽ yếu trong phần lớn thời gian của năm 2023, làm tăng nguy cơ xảy ra vòng xoáy giảm phát.

Hơn nữa, những nỗ lực gần đây của Trung Quốc nhằm kích thích nền kinh tế thông qua chi tiêu cho cơ sở hạ tầng đã không có tác động tích cực lớn như trước. Các nhà đầu tư vẫn lo ngại rằng chúng có thể báo trước một sự thay đổi cơ bản hơn, kém hấp dẫn hơn trong bản chất nền kinh tế Trung Quốc. Ngay cả khi không có thông tin cụ thể, những lo ngại vẫn có thể đủ để khiến các nhà đầu tư tìm kiếm nơi khác.

Việc lãnh đạo ĐCSTQ gần như si mê với an ninh quốc gia khiến việc thu thập dữ liệu cần thiết cho các quyết định đầu tư gần như không thể. Cùng với việc ĐCSTQ thường xuyên đàn áp các công ty nước ngoài và công ty tư nhân trong nước, các công ty nước ngoài ngày càng cảnh giác trước sự giám sát ngày càng tăng của ĐCSTQ. Một cuộc khảo sát vào tháng 9 của Phòng Thương mại Mỹ tại Thượng Hải cho thấy chỉ 52% số người được hỏi lạc quan về triển vọng kinh doanh trong 5 năm tới, mức thấp nhất kể từ khi cuộc khảo sát bắt đầu vào năm 1999.

Đối mặt với tất cả những cân nhắc này, không khó để hiểu tại sao Phố Wall lại mất đi sự nhiệt tình từng có khi đầu tư vào Trung Quốc.