“Đột tử” hay là “chết bất ngờ” đang ngày càng trẻ hóa. Một nghiên cứu chỉ ra rằng những người đột tử có một số điểm chung, và nhắc nhở mọi người phòng bệnh là ưu tiên hàng đầu. Một khi có những dấu hiệu liên quan, chúng ta phải cảnh giác, chẩn đoán và điều trị kịp thời. 

đột tử
(Ảnh minh họa: Pixel-Shot/ Shutterstock)

Những người chết đột ngột đều có những điểm chung dưới đây:

“Đột ​​tử do tim” là nguyên nhân chủ yếu

Nguyên nhân chính dẫn đến đột tử là đột tử do tim, thứ hai là đột tử do phổi, sau đó là đột tử não. Nhóm tuổi có tỷ lệ mắc đột tử do tim cao nhất là từ 30 đến 63 tuổi. 

Những người đột tử phần lớn thường là “quá hưng phấn” và “quá mệt mỏi” 

Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, nguyên nhân gây ra đột tử là cảm xúc phấn khích, mệt mỏi và thay đổi lượng máu, tiếp đến là do uống rượu, ăn quá nhiều và bị thương nhẹ. 

Đột tử thường kèm theo những triệu chứng này

Triệu chứng thường thấy nhất của đột tử là phát bệnh đột ngột, trong lúc nghỉ ngơi hay ngủ, tiếp đến là khó thở, tức ngực, đổ mồ hôi, nôn mửa, nhức đầu, chóng mặt, đau ngực, đau bụng, co giật, hồi hộp, ho khan, rối loạn ý thức.v.v.

Hầu hết những người đột tử đều mắc các bệnh mãn tính 

Hầu hết các trường hợp đột tử đều mắc các bệnh mãn tính, trong đó phổ biến nhất là tăng huyết áp, bệnh tim và tiểu đường, tiếp theo là chứng loạn sản, tăng lipid máu, khối u, nhiễm trùng và cường giáp. 

Người trẻ bị nhồi máu cơ tim dễ đột tử

Ngày nay, bệnh nhồi máu cơ tim xảy ra ở người trẻ ngày càng nhiều. Người cao tuổi do mắc các bệnh nền kéo dài như tăng huyết áp thông thường, bệnh tim mạch vành, bệnh tim phổi, bệnh cơ tim giãn nở, bệnh cơ tim phì đại…trong cơ thể có một loại chức năng bù đắp và phục hồi. Tuy nhiên, ở người trẻ, tim thường không có cơ chế bảo vệ bù trừ, nhiều người bị nhồi máu cơ tim cấp tính, gây rối loạn nhịp tim ác tính. 

Những lý do khiến người trẻ dễ bị nhồi máu cơ tim bao gồm: làm việc quá sức, căng thẳng quá mức, hút thuốc quá nhiều, ăn quá nhiều và giảm hoạt động thể chất, thiếu tập thể dục, v.v. 

Những triệu chứng này có thể là dấu hiệu báo trước của nhồi máu cơ tim: 

Đau nửa đầu

Đôi khi bệnh nhân nhồi máu cơ tim sẽ xuất hiện các triệu chứng thần kinh là biểu hiện đầu tiên, với các biểu hiện chóng mặt và đau đầu, nguyên nhân chủ yếu là do co thắt mạch máu não.

Đau cổ và đau họng 

Cảm giác tắc nghẽn và cay nồng đột ngột ở cổ họng, kèm theo các triệu chứng như khó thở và đổ mồ hôi nhiều, có thể là dấu hiệu cảnh báo nhồi máu cơ tim. Dây thần kinh họng và tim được phân bố bởi cùng một đoạn dây thần kinh cột sống, khi thiếu máu cục bộ cơ tim và thiếu oxy xảy ra, các chất axit và polypeptide được sản sinh ra để kích thích dây thần kinh và gây đau, lan đến dây thần kinh họng.

Đau vai trái và nách trái

Vì tim nằm ở bên trái cơ thể con người nên nhồi máu cơ tim sẽ gây đau ở cánh tay hoặc vai trái của người bệnh. Thường có cơn đau âm ỉ, giới hạn ở bên trong cẳng tay, nhưng cũng có thể lan xuống ngón út và ngón đeo nhẫn.

Đau nội tạng

3-24 giờ trước khi bị nhồi máu cơ tim, bệnh nhân có thể gặp các phản ứng cụ thể của nội tạng, bao gồm nôn mửa và tiêu chảy, kèm theo đau ở đầu dưới xương ngực.

Chi dưới bên trái và đùi trái

Nếu đột ngột xuất hiện cơn đau dữ dội ở chi dưới bên trái, tức ngực, khó thở, đổ mồ hôi thì bạn nên cảnh giác với cơn nhồi máu cơ tim cấp tính.

Nhồi máu cơ tim nặng có thể dễ dàng gây ngừng tim và dẫn đến thiếu máu cục bộ cơ quan. Đối với những người bị ngừng tim đột ngột, mỗi phút chậm trễ trong sơ cứu sẽ làm giảm tỷ lệ thành công 10%. Nếu có thể thực hiện hồi sức tim phổi trong vòng 4 phút thì tỷ lệ cấp cứu thành công là 50%, được gọi là “4 phút vàng”.

Nếu sử dụng máy khử rung tim ngoài tự động (AED) kết hợp với khử rung tim, tỷ lệ thành công lên tới 90%. Tuy nhiên, nếu tim ngừng đập trong 10 phút thì tỷ lệ cấp cứu thành công gần như bằng 0. Vì vậy, “thời gian cấp cứu” chính là chìa khóa cứu sống bệnh nhân nhồi máu cơ tim.