Thời kỳ Phục Hưng rực rỡ huy hoàng có thể nói là một thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử nghệ thuật phương Tây, có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài, giống như tiếng chuông lớn trang nghiêm chính đại trong một chương lịch sử nhân loại. Mỹ thuật trong nền văn minh nhân loại lần này, vào thời kỳ Phục Hưng đã tiến đến độ chín, đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp đến nền nghệ thuật phương Tây trong 200 năm sau đó. Nhưng nhìn từ góc độ lịch sử thì 200 năm sau thời kỳ Phục Hưng lại là giai đoạn mà các loại nhân tố tương sinh tương khắc xung đột kịch liệt mà lại rất vi diệu, sự cân bằng âm dương từng bước bị phá vỡ, các nhân tố có liên quan đến rất nhiều và phức tạp, phạm vi đằng sau của nó rất sâu xa. Đây không phải là điều có thể nói được rõ qua một vài bài viết, vì thế những suy tưởng dưới đây chỉ là lý giải nông cạn của cá nhân, đàm luận đơn giản từ vài phương diện về tình hình đại thể của nền mỹ thuật phương Tây, và một chút gợi mở về giai đoạn lịch sử này.

Khoa học thoát thai và sự suy yếu của tín ngưỡng tôn giáo

Sở dĩ phải dành một phần nói về hoàn cảnh khoa học và tôn giáo, là bởi vì trong lịch sử mỹ thuật, bất kể là phát minh chất liệu màu mới, sử dụng dung dịch pha màu, hay là sự cách tân lý luận nghệ thuật, hoặc sự thay đổi chủ đề mỹ thuật đều có liên quan đến khoa học. Trong một thời kỳ rất dài trong lịch sử, sự phát triển của khoa học luôn ở trong tình trạng đình trệ. Bởi vì trong quan niệm của người xưa phổ biến là không thúc đẩy ý thức phát triển khoa học, cho dù có thì cũng giới hạn trong thiểu số cực ít người, điều này đã tạo thành việc đương thời không tồn tại hoàn cảnh nghiên cứu khoa học giống như ngày nay. Trong những niên đại hòa bình, đại đa số cuộc sống thường nhật của mọi người là sống yên bình, làm các công việc truyền thống và đến giáo đường trau dồi tín ngưỡng…, hoàn toàn không liên quan đến khoa học hiện đại. Nhưng sau khi cải cách tôn giáo, rất nhiều sự tình đã phát sinh những biến đổi.

Tin Lành (Tân giáo) về giáo lý không theo Tòa Thánh, nhấn mạnh mối quan hệ trực tiếp giữa cá thể và Thiên Chúa, do đó đạo Tin Lành tất nhiên sẽ kỳ vọng các tín đồ đều có năng lực tự đọc hiểu Kinh Thánh mà không thông qua các giáo sĩ giảng giải truyền thụ. Nhưng vào thế kỷ 16, các quốc gia châu Âu khắp nơi mù chữ và cũng không có nhiều người có khả năng đọc sách. Vì vậy các quốc gia Tinh Lành bắt đầu bắt tay vào giáo dục, dốc sức nâng cao tỷ lệ biết chữ trong dân chúng để họ có thể đọc hiểu Kinh Thánh.

Tỷ lệ quốc dân biết chữ và trình độ văn hóa phổ biến nâng cao đã tạo ra càng nhiều trí thức, mà trong những người này lại có rất nhiều tín đồ thành tín truy cầu tìm kiếm những bí ẩn huyền bí của thiên nhiên, từ đó chứng minh với thế nhân sự sáng tạo của Chúa là vĩ đại nhường nào. Thực ra, thái độ hướng ngoại cầu này đã hoàn toàn không giống với nguyên tắc tu nội của Cơ Đốc giáo nguyên thủy, nhưng nó lại dần dần hình thành một trào lưu tư tưởng. Các thế hệ trí thức vì thế đã nỗ lực không mệt mỏi thúc đẩy khoa học phát triển nhanh chóng.

Trình độ tri thức của dân chúng theo đạo Tin Lành phổ biến nâng cao, điều này tự nhiên khiến Công giáo cảm thấy áp lực gấp bội. Đến nơi nào cũng có thể thấy những trí thức Tin Lành thao thao bất tuyệt luận thuật Tân giáo xuất sắc như thế nào, thế thì Công giáo làm sao không bị ở thế yếu trên phương diện cuốn hút tín đồ? Thế là dưới ý chỉ của giới chức cao cấp của Công giáo, Hội Chúa Giê-su (Society of Jesus) thành lập vào thế kỷ 16 để đối phó với việc cải cách tôn giáo đã phát huy tác dụng, cũng bắt đầu dốc sức mở trường học, bồi dưỡng những giáo sĩ trung thành với Giáo hội và những trí thức của Công giáo. Những hành động này cũng đã thúc đẩy sự phát triển của khoa học.

Khi tín ngưỡng ở trạng thái khá thuần chính, bản thân sự phát triển khoa học chưa chắc đã dẫn đến sự suy yếu của tín ngưỡng. Như mọi người đã biết, rất nhiều nhà khoa học lớn nổi tiếng trong lịch sử đều là những tín đồ tôn giáo thành tín, họ hoàn toàn không vì có tri thức khoa học phong phú mà không còn tín Thần nữa. Nhưng khi tín ngưỡng đã bất thuần, bản thân tín ngưỡng lại tồn tại quan niệm xung đột như trong cuộc ly giáo, thì hễ có nhân tố khác trộn lẫn vào thì có thể sẽ dẫn đến một bước suy yếu tín ngưỡng. Cùng với sự phát triển của lịch sử, càng ngày càng nhiều kết quả thí nghiệm khoa học được công bố và đăng tải khiến mọi người càng muốn tin vào những thứ tận mắt chứng kiến. Điều này dẫn đến tín ngưỡng chân chính của con người dần dần bị khoa học thay thế, còn tôn giáo thì dần dần bị coi là một loại văn minh nhân loại, là thứ trong khái niệm xã hội học.

quan hệ khoa học và tôn giáo
Tranh kính “La Rose des Arts libéraux” tại Nhà thờ Đức Bà Paris (Cathédrale Notre-Dame de Paris). Nhóm tranh này bao gồm 9 “đóa hồng”, mỗi đóa tượng trưng cho một môn học. Ở đây, bảy môn học khai phóng cộng thêm triết học và y học tạo thành 9 môn học. Tuy nhiên bất kể là bảy môn học khai phóng hay là triết học không phải đến thời Trung Cổ mới xuất hiện, mà có nguồn gốc từ văn hóa truyền thống thời Hy Lạp cổ đại. Nói một cách nghiêm khắc, chúng không ăn nhập gì với tín ngưỡng Cơ Đốc. (Ảnh: Vassil, Wikipedia, Public Domain)

Sự thay đổi của nhân tâm và sự suy yếu của tôn giáo cùng với bản thân giáo nghĩa tôn giáo cũng có mối quan hệ trực tiếp. Từ chi tiết có thể phát hiện ra rất nhiều điều mà các nghiên cứu khoa học đương thời lật đổ không phải là tư tưởng trung tâm của Cơ Đốc giáo, mà là những lý luận Thần học phát triển ra trong lịch sử. Lấy ví dụ, trong Thần học Cơ Đốc giáo có không ít lý luận của Aristotle. Khi ở trên tháp nghiêng Pisa đồng thời ném xuống 2 quả cầu trọng lượng khác nhau thì đồng thời tiếp đất, sự thực này đã lật đổ lý luận của Aristotle rằng vật thể có trọng lượng khác nhau thì tốc độ rơi cũng khác nhau. Điều này đã gây ra việc một số người hoài nghi đối với Cơ Đốc giáo, từ đó tiến đến bước chất vấn Chúa có tồn tại hay không.

Nhưng những người có chút hiểu biết về lịch sử đều biết rằng, Aristotle không phải là tín đồ Cơ Đốc giáo, ông là nhân vật sống vào thời đại năm 384 TCN – 322 TCN. Sau khi ông qua đời trên 300 năm thì Chúa Giê-su mới giáng sinh, và sau khi Chúa Giê-su qua đời thì các môn đồ mới kiến lập Cơ Đốc giáo. Lý luận của Aristotle là các giáo sĩ thời kỳ đầu đã kết hợp luận chứng triết học cổ Hy Lạp với tính hợp lý của giáo nghĩa Cơ Đốc, từ đó trộn lẫn đưa vào trong hệ thống lý luận Cơ Đốc giáo. Nói một cách nghiêm khắc, nó là thứ thuộc về ngoại lai, đã phá hoại sự thuần túy vốn có của giáo nghĩa tôn giáo. Những tư tưởng ngoại lai này trong thời kỳ Phục Hưng đã hiển lộ những tệ nạn của nó. Cùng với sự phát triển của thời đại thì tác dụng phụ này cũng càng ngày càng rõ rệt.

quan hệ khoa học và tôn giáo
Mô hình vũ trụ lấy trái đất làm trung tâm (thuyết địa tâm) được triết gia Ptolemy của Hy Lạp cổ đại đưa ra. Sau này giáo hội đã xem nó như một quan niệm đúng đắn để lưu truyền trong các tín đồ và củng cố niềm tin Cơ Đốc. Điều này có nghĩa là Cơ Đốc giáo nguyên thủy vốn không hề đề cập đến thuyết địa tâm. Sách “Harmonia Macrocosmica” của Andreas Cellarius, 1661. (Public Domain)

Tương ứng với nó còn có một số người phủ định Kinh Thánh. Mọi người đều biết là Kinh Thánh cựu ước và tân ước không phải là bút tích của Giê-hô-va, và cũng không phải của Giê-su trước tác, mà là người đời sau ghi chép. Tức là sau khi các vị Giác Giả đó qua đời thì người ta mới nhớ lại và ghi chép lại, không phải điều đích thân các vị Giác Giả biên soạn ra (điều tương tự cũng xảy ra với kinh sách của rất nhiều tôn giáo khác). Trong quá trình lưu truyền, chuyển thuật, hồi ức, ghi chép và phiên dịch thì có rất nhiều khả năng xuất hiện sai sót khác biệt, hơn nữa con người cũng khó mà lý giải được nội hàm chân chính mà các Giác Giả đã giảng, vì vậy trong quá trình sao chép có thể xuất hiện những sai lệch về ngữ nghĩa, thậm chí có tình trạng râu ông nọ cắm cằm bà kia. Ví như nói “Thiên Đàng” ở trên Trời, nhưng cái khái niệm trời này và khái niệm bầu trời mà các nhà khoa học nghiên cứu là khác nhau. Ngày nay dù có dùng kính viễn vọng quan sát khắp nơi, quan sát ra đến ngoài vũ trụ đi nữa thì cũng không thể tìm thấy “Thiên Đàng”. Con người vốn có logic hẹp hòi, nếu không phải thế này tức là thế kia, nên dần dần khoa học và Thần học trở nên đối lập. Khoa học khó mà chứng minh được sự tồn tại của Thần, của Chúa, còn trong tiềm ý thức của mọi người thì dễ bị ngộ nhận là khoa học chứng minh Thần không tồn tại. Cộng thêm rất nhiều giáo sĩ càng ngày càng hủ bại và tác oai tác quái khiến người ta chán ghét, từ đó thúc đẩy sự lan tràn của tư duy nghi ngờ Thần, duy vật, phụ thuộc sâu sắc vào khoa học, vào điều mắt thấy tai nghe. Kỳ thực ví như sóng điện thoại ngày nay, luân chuyển một lượng thông tin rất lớn mỗi giây mỗi khắc, con người nhìn không thấy, sờ không được, nhưng vẫn tin đó thôi. Đây chính là nhược điểm của ý thức con người.

Triết học tự nhiên trong lý luận của Aristotle (Natural philosophy) vào thời Trung Cổ bám vào Thần học Cơ Đốc giáo, xuất hiện trước mọi người với diện mạo Thần học tự nhiên (Natural theology), dưới sự ủng hộ của Giáo hội Công giáo nhất quán theo đuổi truyền thống học thuật, Thần học tự nhiên đã phát triển lớn mạnh. Đương nhiên, trong quá trình này cũng có người phản đối Aristotle, nói rằng ông ta là tín đồ dị giáo. Nhưng bất kể là loại học vấn này được đội mũ “Aristotle” hay là một cái tên tùy ý khác thì tinh thần của nó đã sớm như một cây dây leo không ngừng sinh trưởng lan ra.

Khoa học thời kỳ đầu ở các nước trên thế giới đều không phải thuộc về khoa học độc lập, mà là sự kết hợp của các nhân tố như Thần học, Thần bí học, tín ngưỡng… hợp thành nhất thể. Ví như thiên văn học có nguồn gốc từ lý luận tinh tượng và thuật chiêm tinh viễn cổ, hóa học thoát thai từ thuật luyện kim v.v.. Trong bước đầu khoa học phát triển, thuật luyện kim và chiêm tinh của các khu vực Arab đã phát triển cao độ, cũng được truyền vào châu Âu, đồng thời trộn lẫn một bộ phận những lý luận tôn giáo trong thế giới Hồi giáo, từ đó càng lặng lẽ cải biến Cơ Đốc giáo. Nhìn có vẻ như tri thức khoa học sau này đã thay thế triết học tự nhiên của Aristotle, nhưng con đường của nghiên cứu khoa học lại là từ trong tôn giáo từng bước phát triển lên. Khoa học đang từng bước hoàn thành bước thoát thai cuối cùng…

quan hệ khoa học và tôn giáo
Mái vòm tu viện Dekoulou được xây dựng vào thế kỷ 16. Hình ảnh chúa Jesus được bao xung quanh bởi các Thánh đồ, sau đó là các chòm sao chiêm tinh học. Nhưng loại kiến thức thiên văn học này vốn chẳng hề liên quan gì tới Cơ Đốc giáo nguyên thủy. (Ảnh: Shutterstock)

Sau khi cải cách tôn giáo, Tân giáo Tin Lành chủ trương lý luận “tín đồ đều là thầy tu” càng khiến không ít các nhà khoa học Tin Lành coi nghiên cứu khoa học tự nhiên là những hoạt động của thầy tu tìm kiếm Thiên Chúa tạo ra vạn vật, thậm chí vào thế kỷ 17 còn hình thành phong trào triết học. Thế là dưới sự tài trợ các phương diện của một số đoàn thể bí mật, khoa học tự nhiên ban đầu đã từng bước thoát thai thành vật lý học ngày nay, khoa học hoàn toàn độc lập với Thần học, đồng thời đến thời hiện đại mà nói, còn có thể xem như dẫm đạp lên trên Thần học.

Các hành vi các phương diện của thế lực tôn giáo cũng trở thành chất xúc tác cho sự chuyển biến tín ngưỡng này. Khi Copernicus phát biểu thuyết nhật tâm năm 1543, thách thức thuyết địa tâm của Thần học, Giáo hội đã lựa chọn thái độ khoan dung. Giáo hội La Mã trong thế kỷ 17 không hề ra lệnh cấm trước tác của Copernicus. Sau đó đến Galilei viết sách ra học thuyết thì thái độ của Giáo hội đã hoàn toàn thay đổi rồi. Không giống như việc Bruno bị thiêu chết, một vụ việc hoàn toàn không liên quan đến khoa học, Galilei vào năm 1633 đã bị Giáo hội phán xử giam lỏng chung thân. Án này có liên quan trực tiếp đến thuyết nhật tâm mà ông ủng hộ. Không ít các văn bản khoa học liên quan vào đầu thế kỷ 17 cũng bị liệt vào “danh mục sách cấm” (Index Librorum Prohibitorum), nghiêm cấm in ấn, nhập khẩu và tiêu thụ.

Phương thức dùng bạo lực bóp chết này trên bề mặt có vẻ như duy hộ sự uy nghiêm của Giáo hội, nhưng vào thời đại tư tưởng dân chúng dần dần sôi động thì sẽ dẫn đến dần dần mất lòng người. Tín ngưỡng tôn giáo được kiến lập trên cơ sở con người thực tâm tín phụng, một khi lòng người đã không tin tôn giáo nữa thì chỉ là khuất phục vũ lực mà Giáo hội nắm giữ, buộc phải trái với lòng mình mà phục tùng Giáo hội. Tôn giáo không còn tác dụng dẫn dắt nhân tâm như nó vốn có ban đầu nữa, tình thế này ắt sẽ dẫn đến sự suy bại của tôn giáo về thực chất. Nhìn từ góc độ thành trụ hoại diệt, âm dương chính phụ thì tất cả đều đang phát triển về hướng phụ diện.

Sự tăng trưởng các nhân tố phụ diện từ tầng diện vật chất cũng có thể thể hiện ra. Do sự phát triển của khoa học, việc phát minh ra súng hỏa mai và súng kíp đã dẫn đến thực tế là trang phục mũ áo giáp buộc phải dần vứt bỏ. Sức mạnh hủy diệt càng ngày càng vượt qua sức mạnh phòng hộ, nhân loại càng ngày càng bước đến hướng hoại diệt rõ rệt.

Còn trong lĩnh vực tư tưởng, sự xuất hiện của Phong trào Khai sáng (The Enlightenment) càng phá vỡ sự cân bằng giữa chính và phụ này trong xã hội trước đó. Với việc lấy sự phát triển khoa học thực chứng làm nền tảng lý luận, những người theo Phong trào Khai sáng tôn sùng tư duy lý tính. Bằng tư duy biện luận logic sắc bén và nhanh nhạy của họ đã đả thương quyền uy tôn giáo trong trạng thái không ngừng suy yếu. Nếu nói sự xuất hiện của “Thần luận tự nhiên” (Deism) ở thế kỷ 17 mang khuynh hướng chủ nghĩa duy vật đã khiến cho giới tôn giáo đương thời phải kêu lớn “dị đoan”, thế thì lý luận hóa và hệ thống hóa của thuyết vô Thần (hoặc nghi ngờ sự tồn tại của Thần) càng khiến các phái tôn giáo lớn giận dữ khôn nguôi. Nhưng các thế lực đối địch khi đó đang ẩn mình như Hội cộng tế (Freemasonry), Hội quang minh (Illuminati), Satan giáo (Satanism) và chủ nghĩa Lucifer (Luciferianism) cũng đã lớn mạnh, tôn giáo truyền thống đã không còn năng lực chế ngự tư tưởng đại chúng trong lĩnh vực ý thức nữa. Rất nhiều giáo sĩ bản thân đức hạnh không đủ, sức cảm hóa đạo đức không đủ nên không thể nào khiến người ta tâm phục. Trái lại, còn dẫn đến rất nhiều người phản đối dựa vào đó phát huy, công kích tôn giáo. Ví như Voltaire từ nhỏ học trong Hội Chúa Giê-su, sau khi trưởng thành không những không trung thành với Giáo hội, trái lại còn cả đời thóa mạ Cơ Đốc giáo, mặc sức tung hoành trong xã hội thượng lưu, được cả danh và lợi, thậm chí sau khi chết còn được lưu danh sử sách.

Cùng với tư tưởng phản Thần, phản truyền thống càng ngày càng lan truyền rộng, đạo đức con người trong khi vô tri vô giác đã bị phá hoại. Trước đến nay người ta hay nhìn vào mặt tích cực của Phong trào Khai sáng và ca ngợi nó, nhưng mặc tiêu cực của nó cũng không phải là nhỏ. Vì Phong trào Khai sáng tâng bốc tự do cá nhân và lý tính khoa học, trong hoàn cảnh tín ngưỡng suy hoại, sẽ khiến bộ phận tự tư tự lợi trong nhân tính liền bùng nổ. Con người không tín Thần thì sẽ không có bất kỳ sự ước thúc tư tưởng nào, chạy theo ham dục, xâm hại người khác cũng không e dè gì. Sự phát hành “Bách khoa toàn thư” (Encyclopédie) trong Phong trào Khai sáng khi phổ cập khoa học thì cũng đồng thời phổ biến lượng lớn quan điểm phản tôn giáo. Còn sự giải thích đối với trời đất vạn vật thì cũng là dựa vào trình độ khoa học thấp kém đương thời, dùng tư duy nghi ngờ sự tồn tại của Thần làm tôn chỉ để đặt định nghĩa. Tuy sai sót rất nhiều nhưng Phong trào Khai sáng lại đặt định ra toàn bộ mô thức tư duy của nhân loại hiện đại. Bởi vậy không có gì ngạc nhiên khi phần lớn trí thức ngày nay sùng bái nó.

Nhìn từ phương diện tín Thần, từ phương diện tín ngưỡng, thì Phong trào Khai sáng là một lần nhắm vào những tư tưởng truyền thống bình thường đương thời, mong muốn dựa vào tri thức khoa học thực chứng và quan điểm nghi ngờ sự tồn tại của Thần để thay thế tín ngưỡng tôn giáo trên hình thái ý thức, tạo ra nền tảng cho việc lật đổ trật tự xã hội truyền thống sau này. Sự tiếp diễn của nó về phương diện lịch sử và nghệ thuật có thể tham khảo trong bài: Công xã Paris lần thứ nhất và nghệ thuật Tân Cổ điển.

(Còn tiếp)

Theo loạt bài “Diễn giải mỹ thuật trong 200 năm sau thời Phục hưng Văn nghệ
Đăng trên Minghui.org
Tác giả: Arnaud H.

Xem thêm:

Mời xem video: