Cùng một ngày 12/7, giới chức tỉnh Thanh Hóa và TP Đà Nẵng đồng loạt công bố con số hàng trăm nhân viên y tế đã nghỉ việc tại cuộc họp cấp HĐND. Lý do y bác sĩ nghỉ việc hàng loạt trong khối công được đưa ra từ thiếu thuốc, thiết bị, vật tư y tế đến áp lực lớn, thu nhập thấp.

nhan vien y te nghi viec 1
Một y tá tiêm vắc-xin COVID-19 cho người đàn ông tại Trung tâm y tế huyện Lang Chánh, Thanh Hóa, tháng 6/2021. (Ảnh minh họa: dongluong.langchanh.thanhhoa.gov.vn)

Thanh Hóa: Số bác sĩ nghỉ việc chiếm tới 47% tổng số

Tại kỳ họp thứ bảy, HĐND tỉnh Thanh Hóa khóa XVIII, diễn ra ngày 12/7, ông Trịnh Hữu Hùng, Giám đốc Sở Y tế tỉnh Thanh Hóa cho hay từ năm 2020 đến nay, tỉnh Thanh Hóa đã có 206 nhân viên y tế nghỉ việc, trong đó có 96 bác sĩ (chiếm khoảng 47%).

Theo ông Hùng, nguyên nhân dẫn đến nhiều nhân viên y tế nghỉ việc là do các y, bác sỹ tại những cơ sở khám, chữa bệnh, điều trị COVID-19 (viêm phổi Vũ Hán) bị áp lực công việc nặng nề và luôn cảm thấy mệt mỏi. Tại những cơ sở ít hoặc không điều trị bệnh nhân COVID-19, số lượng người đến khám chữa bệnh giảm nhiều, ảnh hưởng đến nguồn thu của các đơn vị dẫn đến thu nhập của nhân viên y tế bị giảm mạnh.

Ngoài ra, nhân viên y tế, bác sĩ còn phải đối mặt với mối nguy hiểm từ người bệnh và người thân của bệnh nhân, trong khi cơ chế bảo vệ nhân viên y tế còn nhiều bất cập, chưa được động viên đánh giá đúng mức từ người bệnh, từ xã hội đến cả cấp quản lý.

Ngoài tình trạng thiếu hụt nhân lực, ngành y của tỉnh còn đối diện với tình trạng thiếu thuốc, vật tư y tế. Theo ông Hùng, nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm, sợ bị thanh tra, kiểm tra trong khi do yêu cầu công việc, tình huống nên nhiều khi phải đấu thầu theo hình thức chỉ định thầu. Một số doanh nghiệp, nhà cung cấp e ngại cung cấp hàng hóa cho một số đơn vị công, do liên quan đến giá chưa hợp lý, thủ tục đấu thầu, thanh toán phức tạp.

“Mua sắm trong lĩnh vực y tế, có lúc, có nơi xuất phát từ nhu cầu bị động, phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như tình hình dịch bệnh, mô hình bệnh tật, nhiều gói thầu phải mua theo hình thức chỉ định thầu, lựa chọn nhà thầu trong tình trạng khẩn cấp để phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh và nhu cầu chống dịch COVID-19. Trong khi, việc thực hiện nghị định 60/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập về thẩm quyền mua sắm từ các nguồn thu của đơn vị chưa có thống nhất, dẫn đến việc đấu thầu mua sắm của các đơn vị sự nghiệp cũng bị chậm…”– ông Hùng nói.

Nói về giải pháp hạn chế tình trạng nhân viên nghỉ việc, ông Hùng cho hay đã kiến nghị UBND tỉnh Thanh Hóa ngoài hỗ trợ kinh phí cho các đơn vị theo Quy định 16 của Thủ tướng, cần có chính sách hỗ trợ thêm theo đầu giường bệnh, đồng thời đề nghị BHXH Việt Nam thanh toán chi phí vượt định mức kinh tế kỹ thuật năm 2017, 2018 cho các cơ sở khám, chữa bệnh với số tiền khoảng 230 tỷ đồng.

Đà Nẵng: Cứ mỗi tháng 18 nhân viên y tế nghỉ việc 

Cùng ngày, tại kỳ họp thứ bảy, HĐND TP Đà Nẵng khóa X, ông Nguyễn Đình Khánh Vân, Trưởng ban Văn hóa – Xã hội HĐND TP Đà Nẵng cho hay trong 1 năm rưỡi qua, 322 nhân viên y tế trong TP đã nghỉ việc, tức bình quân mỗi tháng 18 người nghỉ.

Cụ thể năm 2021, TP có 195 nhân viên y tế xin nghỉ việc, sáu tháng đầu năm 2022 có thêm 127 nhân viên y tế xin nghỉ việc. Ông Vân cho rằng con số này “thuộc dạng cao”.

Ngoài nhân lực mỏng, việc thiếu thuốc, vật tư y tế tại các cơ sở khám chữa bệnh vẫn đang là một trong những khó khăn của ngành y tế TP Đà Nẵng.

Ông Vân đề nghị UBND TP tham mưu xây dựng các chính sách hỗ trợ cho ngành y tế nói chung và y tế cơ sở nói riêng nhằm hạn chế  tình trạng  y, bác sĩ, người lao động ngành y tế  nghỉ việc, chuyển công tác; nhanh chóng khắc phục tình trạng thiếu thuốc, thiết bị, vật tư y tế tại nhiều cơ sở khám chữa bệnh hiện nay.

Ông Vân cũng kiến nghị TP đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình y tế trọng điểm như Trung tâm Phẫu thuật thần kinh, chấn thương và bỏng tạo hình; Trung tâm Ghép tạng và cấy ghép tế bào gốc; nâng cấp BV Phụ sản – Nhi Đà Nẵng. Đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra, quản lý hoạt động y tế tư nhân, xây dựng các chính sách hỗ trợ cho ngành y tế nói chung và y tế cơ sở nói riêng.

Những con số nhân viên y tế nghỉ việc liên tiếp được giới chức các tỉnh thành công bố trong thời gian gần đây. Đầu tháng 7, lần đầu tiên, Bộ Y tế công bố con số tổng nhân viên y tế nghỉ việc, gián tiếp thừa nhận cuộc khủng hoảng nhân lực của ngành y tế khối công.

Tại hội nghị trực tuyến ngày 4/7, Thứ trưởng phụ trách, điều hành Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên cho biết tổng số 9.397 viên chức y tế xin thôi việc, bỏ việc trong vòng 1 năm rưỡi qua, theo báo cáo của các địa phương (giai đoạn 2021 và 6 tháng đầu năm 2022).

Trong đó, năm 2021 có 5.284 viên chức y tế xin thôi việc hoặc bỏ việc; 6 tháng đầu năm 2022, có 4.113 viên chức y tế xin thôi việc, bỏ việc (3.756 viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của các Sở Y tế và 357 viên chức công tác tại các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Y tế). Bình quân mỗi tháng khoảng 522 nhân viên y tế khối công nghỉ việc.

Một số tỉnh, thành phố có số lượng viên chức thôi việc, bỏ việc cao như: TP.HCM, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, An Giang, Đà Nẵng…

Lý giải về tình trạng này, ông Tuyên nói rằng có nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do thu nhập thấp, lương và chế độ phụ cấp chưa bảo đảm nhu cầu cuộc sống, nhất là tại các cơ sở y tế dự phòng và y tế cơ sở; chính sách thu hút nguồn nhân lực tốt của hệ thống y tế tư nhân, nhất là đối với nhân lực có trình độ cao, chuyên môn sâu.

Tại hệ thống y tế công, áp lực công việc cao, cường độ lao động lớn, đặc biệt từ khi dịch bệnh COVID-19 bùng phát đến nay làm tăng thêm khối lượng công việc cộng với công việc thường xuyên, các công việc tồn đọng.

Ngoài ra, theo ông Tuyên, nhân viên y tế làm việc trong môi trường làm việc nguy hiểm, có nguy cơ mắc bệnh cao, thậm chí có thể nguy hiểm đến tính mạng. Các nguyên nhân khác như lý do gia đình, sức khỏe, ảnh hưởng tâm lý do tác động của các vụ việc vi phạm trong mua sắm, đấu thầu thời gian qua…

7 nguyên nhân khiến “giọt nước tràn ly”

Báo Sức khỏe & Đời sống – cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế ngày 8/7 dẫn ý kiến của TS Nguyễn Huy Quang – nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế, cho rằng có 7 lý do làm “giọt nước tràn ly” khiến hàng nghìn nhân viên y tế nghỉ việc, thôi việc.

Thứ nhất, thu nhập thấp. Một bác sĩ để có kỹ năng thực hành y khoa được người bệnh công nhận, ít nhất phải có chục năm được đào tạo, tập huấn, cập nhật kiến thức y khoa liên tục. Tới khi ra nghề, bác sĩ đã đến 30-35 tuổi và phải đối mặt với gánh nặng, trách nhiệm về con cái, gia đình, mức lương khoảng 5-7 triệu đồng đảm bảo để an tâm công tác.

Để so sánh, ông Quang cho hay người giúp việc hiện nay có mức lương khoảng 7-10 triệu đồng, người phụ hồ với mức chi trả hơn 300 nghìn/ngày công, cũng có số thu nhập 9-10 triệu đồng/tháng.

Thứ hai, áp lực công việc nặng nề, chưa bảo đảm an toàn nghề nghiệp. Làm ở khu vực y tế công, áp lực công việc lớn, trực bệnh viện liên tục, phải đối diện với sự xúc phạm, thậm chí đe dọa đến sức khỏe và tính mạng từ phía người bệnh và người thân, nhân viên y tế luôn cảm thấy mệt mỏi, không có thời gian nghỉ ngơi để tái tạo sức lao động.

Thứ ba, thiếu quá nhiều thuốc, vật tư y tế, thiết bị y tế. Để nâng cao chất lượng khám, chẩn đoán, điều trị cần thiết phải có đầy đủ thuốc, vật tư y tế, có như vậy bác sĩ mới có khả năng cống hiến, đem kinh nghiệm của mình phục vụ người bệnh. Nhưng hiện nay ở các bệnh viện công còn thiếu quá nhiều thuốc, vật tư y tế, thiết bị y tế trong khi ở bệnh viện tư, họ sẵn sàng đáp ứng đủ thuốc, vật tư y tế, thiết bị y tế.

Thứ tư, môi trường làm việc chưa thật sự được đáp ứng. Làm việc trong môi trường có áp lực rất lớn nhưng bác sĩ, nhân viên y tế lại không được động viên, đánh giá đúng mức từ người bệnh, từ xã hội đến cả các cấp quản lý. Trong khi ra làm việc ở các bệnh viện tư, điều này là khác.

Thứ năm, điều kiện học tập, trau dồi kỹ năng thực hành y khoa khác biệt giữa khu vực công với khu vực tư nhân. Khi làm ở khu vực công, y bác sĩ muốn đi học phải chờ lần lượt, phải đáp ứng các yêu cầu của bệnh viện… Trong khi đó, ở khu vực y tế tư nhân nếu muốn đi học, bác sĩ, nhân viên y tế sẽ được tạo điều kiện thuận lợi để được đào tạo, nâng cao tay nghề.

Thứ sáu, khả năng thăng tiến. Tại bệnh viện công, muốn làm trưởng, phó khoa phải đi học lý luận chính trị trung cấp, ngoại ngữ, phải ở trong diện quy hoạch cán bộ lãnh đạo đã được phê duyệt…Trong khi ở bệnh viện tư, chỉ cần có tay nghề, kỹ năng thực hành y khoa, có uy tín, đông bệnh nhân…là đã có thể được bổ nhiệm.

Thứ bảy, quản trị bệnh viện công khác so với bệnh viện tư. Việc quản lý các bệnh viện công vẫn theo thói quen từ trước đến nay nên ít có sự thay đổi trong khi ở khu vực y tế tư nhân vấn đề này lại được đặc biệt chú trọng, thay đổi thường xuyên, tiếp cận được với các phương thức quản trị bệnh viện trên thế giới. Đây cũng là nguyên nhân thu hút bác sĩ, nhân viên y tế chuyển đến khu vực y tế tư nhân.

Minh Sơn