Chuyên gia kinh tế Milton Ezrati (Mỹ) đã chỉ ra vấn đề lạm dụng quyền lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) gây tác dụng ngược vì thiệt hại cho nền kinh tế, khiến một số lượng lớn các công ty đang sẵn sàng rời khỏi Trung Quốc. Ông nhấn mạnh xu thế “tách rời” mà Chính phủ Mỹ thường chỉ ra rõ ràng đã bắt đầu, nhưng “chủ yếu là vì lý do thị trường, không phải do Mỹ hay bất kỳ chính phủ phương Tây nào khác ép buộc”.

Milton Ezrati
Ông Milton Ezrati. (Ảnh chụp màn hình video)

Ông Ezrati đã viết trên tờ Forbes vào thứ Hai (3/4) rằng giới lãnh đạo của ĐCSTQ trong những năm gần đây “tâm tình sốt sắng không khác gì trẻ ở tuổi vị thành niên”, điều này trái ngược với văn hóa Trung Quốc, biểu hiện của họ cho thấy “phi Trung Quốc (un-Chinese)”, đã làm lung lay nền tảng kinh tế hỗ trợ ĐCSTQ.

Ông cho biết, vào cuối những năm 1970 khi Trung Quốc bắt đầu tăng trưởng kinh tế, điểm thu hút chính là khả năng cung cấp cho các công ty phương Tây và Nhật Bản nguồn lực lao động giá rẻ được đào tạo tốt.

“Ngay cả đến năm 2000 khi Trung Quốc mới được vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), khi đó mức lương trung bình hàng năm của họ chỉ cao hơn một chút mức 3% trung bình ở Mỹ, ưu thế đó đã thu hút đầu tư mạnh từ phương Tây và Nhật Bản”.

Nhưng khi nền kinh tế phát triển, tiền lương của người lao động Trung Quốc đã tăng với mức nhanh hơn nhiều mức tăng tiền lương ở các nước phát triển khác.

“Đến năm 2021, tức năm cuối cùng có dữ liệu hoàn chỉnh, cho thấy mức lương trung bình ở Trung Quốc đã đạt gần 1/3 mức tương đương ở Mỹ”, bài báo viết.

Ngày nay, các chính sách ngày càng cứng rắn của ĐCSTQ đã khiến sức hấp dẫn của nền kinh tế Trung Quốc ngày càng kém hơn. Ví dụ, nhà chức trách Trung Quốc chặn xuất khẩu các vật tư quan trọng như khẩu trang y tế trong đại dịch COVID-19… khiến doanh giới phương Tây và Nhật Bản không thể không xem lại tính bảo đảm trong việc tìm nguồn cung tại Trung Quốc. Kể từ đó, chính sách ‘Zero COVID’ nghiêm ngặt của ĐCSTQ khiến xu thế lo ngại đó không ngừng tăng lên.

Trong khi ưu thế lao động giá rẻ và độ tin cậy bị mất, xu thế bất mãn của công ty phương Tây và Nhật Bản với các chính sách của ĐCSTQ vẫn không ngừng tích tụ. Ví dụ, Bắc Kinh yêu cầu bất kỳ công ty nào kinh doanh tại Trung Quốc phải chia sẻ công nghệ và bí mật thương mại với đối tác Trung Quốc, hoặc ăn cắp trắng trợn tài sản trí tuệ.

Nhưng trước sự bất bình của cộng đồng quốc tế, nhà chức trách Trung Quốc vẫn “không có dấu hiệu thay đổi”.

Ezrati cũng chỉ ra: “ĐCSTQ cũng ngày càng lạm dụng hành động bắt nạt và trả đũa. Bất chấp các yêu sách chủ quyền chính đáng của Nhật Bản và Philippines, Bắc Kinh đã phớt lờ phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế để không ngừng hiện diện quân sự ở Biển Đông và Biển Hoa Đông”.

Ngoài ra, ĐCSTQ cũng thường xuyên đe dọa sử dụng vũ lực đối với Đài Loan, dùng các biện pháp chính thức và không chính thức để trả đũa nhắm vào lợi ích kinh doanh của Hàn Quốc trước việc Hàn Quốc lắp đặt hệ thống chống tên lửa THAAD. ĐCSTQ cũng cấm bán rượu Nho của Úc để trừng phạt Úc vì lên tiếng nghi ngờ nguồn gốc của đại dịch COVID-19 [do ĐCSTQ gây ra]. Nhiều hành động trả đũa tương tự đã được ĐCSTQ thực hiện đối với Ericsson của Thụy Điển, Lotte của Hàn Quốc, các cơ sở sản xuất của Litva, đối với  thương mại của Đài Loan…

Ông Ezrati lưu ý rằng khi Mỹ, châu Âu và Nhật Bản bắt đầu đáp trả các hành động bắt nạt và trả đũa của ĐCSTQ, các doanh nghiệp bắt đầu lo lắng về việc bị lôi kéo vào cuộc chiến xung đột ngoại giao.

Trong một số cuộc khảo sát gần đây của các phòng thương mại nhiều nước cho thấy có thay đổi rõ rệt trong thái độ của doanh nghiệp nhiều nước.

Tổng giám đốc Tony Danker của Liên đoàn Doanh nghiệp và Công nghiệp Anh (CBI), cho biết mọi công ty mà ông tiếp xúc đều cho biết họ đang phải xem xét lại chuỗi cung ứng.

“Mọi công ty mà lúc này tôi đang tiếp xúc đều đang xem xét lại chuỗi cung ứng của họ”, ông nói, “Vì họ dự đoán rằng các chính trị gia của chúng ta chắc chắn sẽ tăng tốc hướng tới một thế giới tách rời khỏi Trung Quốc”.

Chủ tịch Bettina Schoen-Behanzin của Phòng Thương mại Liên minh châu Âu chi nhánh Thượng Hải chỉ ra: “Điều duy nhất có thể dự đoán được ở Trung Quốc là tính khó đoán, điều này có hại cho môi trường kinh doanh”.

Theo báo cáo của công ty môi giới bảo hiểm đa quốc gia Willis Towers Watson, có tới 95% công ty đa quốc gia lo ngại về rủi ro khi kinh doanh tại Trung Quốc, tỷ lệ này vào 2 năm trước còn là 62%.

Ông Ezrati lưu ý rằng một danh sách dài các công ty nổi tiếng đã bắt đầu hành động rời khỏi Trung Quốc hoặc đang nghiêm túc xem xét làm như vậy: Apple đã chuyển dây chuyền sản xuất AirPod Pro 2 sang Việt Nam, Samsung đang chuẩn bị chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc, Volvo đã từ chối xây dựng một nhà máy mới ở Trung Quốc để xây dựng ở Slovakia, trong khi Adidas và nhiều nhà sản xuất giày và quần áo khác đã bắt đầu chuyển sản xuất sang Việt Nam và các nơi khác, nhiều công ty Nhật Bản bắt đầu chuyển hoạt động sản xuất từ Trung Quốc trở về nước…

“Nhưng bản danh sách này còn rất xa mới dừng lại”, Ezrati viết.