Ninh Bình: Dấu ấn còn lại của nước Đại Cồ Việt xưa
- Thanh Phong
- •
Về với Ninh Bình là tìm về Cố đố Hoa lư của nước Đại Cồ Việt xưa, bên những chứng tích còn lại của thời gian là dấu ấn của một kinh đô Việt đầu tiên sau ngàn năm Bắc thuộc…
Ninh Bình là tỉnh nằm ở cửa ngõ cực Nam của miền Bắc, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch xây dựng phát triển kinh tế, Ninh Bình thuộc vùng duyên hải Bắc, nằm ở vị trí ranh giới khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Tỉnh này cũng nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng Hà Nội, vùng duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung.
Từ lâu, Ninh Bình đã nổi tiếng với những danh lam thắng cảnh thơ mộng, quyến rũ và đậm chất văn hóa, như nhà thờ đá Phát Diệm, Tam Cốc, Bích Động, rừng nguyên sinh Cúc Phương, khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, động Vân Trình, suối nước nóng Kênh Gà và cố đô Hoa Lư gắn liền với tên tuổi vị vua có công dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước – Đinh Tiên Hoàng.
Kinh đô nước Đại Cồ Việt
Hoa Lư được coi là kinh đô đầu tiên của nước Việt sau nghìn năm Bắc thuộc. Kinh đô này tồn tại 42 năm, gắn với sự nghiệp của ba triều đại liên tiếp: nhà Đinh, nhà Tiền Lê, và nhà Lý. Hoa Lư cũng đọng lại nhiều dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn, đánh Tống bình Chiêm.
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long Hà Nội, khiến Hoa Lư trở thành Cố đô. Các triều vua Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau đó dù không đóng đô ở Hoa Lư nữa nhưng vẫn cho tu bổ và xây dựng thêm ở đây nhiều công trình kiến trúc như đền, lăng, đình, chùa, phủ, v.v.. Cố đô Hoa Lư có diện tích tự nhiên 13,87 km² nằm trọn trong quần thể di sản thế giới Tràng An thuộc địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Cố đô Hoa Lư hiện nay nằm trên địa bàn giáp ranh giới huyện Hoa Lư, Gia Viễn và thành phố Ninh Bình. Đây là vùng đất phù sa cổ, ở ven chân núi có con người cư trú từ rất sớm. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trầm tích các động vật trên cạn thuộc sơ kỳ đồ đá cũ thuộc nền văn hóa Tràng An và một số hang động có di chỉ cư trú của con người thời văn hoá Hoà Bình. Sau thời kỳ văn hoá Hoà Bình, vùng này là nơi định cư của con người thời đại đồ đá mới của dân tộc Việt. Quần thể di sản thế giới Tràng An ở Hoa Lư còn lưu giữ nhiều di vật của người tiền sử từ 30.000 năm trước, dấu tích của các triều đại, kinh đô xưa.
Đền Vua Đinh Tiên Hoàng và đền Vua Lê Đại Hành được xây dựng từ thời nhà Lý và xây dựng lại từ thời Hậu Lê theo kiểu nội công ngoại quốc và bao bên trong có hai di tích vua Đinh và vua Lê. Trước mặt đền Đinh là núi Mã Yên có hình dáng giống cái yên ngựa, trên núi có lăng mộ vua Đinh. Đền Đinh Tiên Hoàng là một công trình kiến trúc độc đáo trong nghệ thuật chạm khắc gỗ của các nghệ sĩ dân gian Việt Nam ở thế kỷ 17, và là công trình nghệ thuật đặc sắc với nhiều cổ vật quý hiếm được bảo tồn, như gạch xây cung điện có khắc chữ Đại Việt quốc quân thành chuyên, cột kinh Phật khắc chữ Phạn, các bài bia ký, v.v..
Đền Vua Lê Đại Hành nằm cách đền vua Đinh Tiên Hoàng 300 m. Đền vua Lê có quy mô nhỏ hơn đền vua Đinh. Các nghệ nhân điêu khắc đã chạm khắc những câu chuyện ca ngợi vua Lê Đại Hành trong đền thờ này. Đặc sắc nhất phải kể đến những truyền thuyết về vua Lê: Mẹ vua Lê mơ thấy hoa sen rồi sinh ra vua Lê. Khi ông còn bé, có lần trong lúc đi cấy, mẹ đã ủ ông trong khóm trúc. Vô tình, một con hổ đi ngang qua đó, và chuẩn bị ăn thịt vua Lê. Nhưng sau lời cầu xin của bà mẹ, con hổ đã bỏ đi.
Non nước Ninh Bình
Ninh Bình, vùng đất địa linh, là nơi chứa những vật báu của trời, nơi nổi tiếng có nhiều thắng cảnh. Nơi đây cũng là một vùng “tam giác nước” được tạo bởi ba con sông: sông Đáy, sông Hoàng Long và sông Vân. Những danh thắng như sông Vân, núi Thuý đã đi vào huyền thoại, là biểu tượng của Ninh Bình.
Sông Vân còn gọi là Vân Sàng, gắn với câu chuyện về Lê Hoàn đánh thắng quân Tống trở về. Hoàng hậu Dương Vân Nga đã đem một đoàn cung nữ mở tiệc đón nhà vua ở trên dòng sông. Cái tên Vân Sàng đã ra đời từ đó.
Núi Thuý còn gọi là núi Non Nước, một quả núi nhỏ ở ngã ba sông, đã chứng kiến dấu tích của nhiều thời kỳ lịch sử. Ngay từ thời Lý Nhân Tông vào năm Quảng Hựu thứ 7 (1091), người xưa đã xây tháp Linh Tế trên núi. Trải qua bao mưa nắng tháp bị hư hại. Đến thời Trần, nhà sư Trí Nhu đã xây lại tháp Linh Tế ở trên đỉnh núi, sau sáu năm mới hoàn thành.
Ninh Bình còn nổi tiếng với nhiều hang động kỳ thú như: Tam Cốc, Bích Động, động Thiên Tôn, động Hoa Sơn, động Bàn Long, động Tam Giao, động Mã Tiên… Trong đó, Bích Động được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhị động” – Động đẹp thứ nhì dưới trời Nam, sau Động Hương Tích, Hà Tây. “Nam thiên đệ tam động” là Địch Lộng cũng nằm ở Ninh Bình.
Đất Ninh Bình không chỉ là vùng đất địa linh mà còn là nơi có nhiều nhân kiệt như: vua Đinh Bộ Lĩnh; hoàng hậu Dương Vân Nga; quốc sư Nguyễn Minh Không; các danh tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ; nhà thơ Trương Hán Siêu; tiến sĩ Ninh Tốn; danh nhân văn hoá Vũ Phạm Khải, Phạm Thận Duật.
Địa linh và nhân kiệt đã làm nên lịch sử, văn hoá Ninh Bình qua các thời đại. Nơi đây còn là vùng đất có vị trí chiến lược trong suốt hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc: vùng đất rút lui chiến lược để vào Thanh Hoá của tướng Đô Dương thời Hai Bà Trưng; vùng đất phát tích của Đinh Bộ Lĩnh; căn cứ để nhà Trần 2 lần chiến thắng giặc Nguyên – Mông; đất dựng nghiệp của ba đời vua Đinh – Tiền Lê – Lý…
Tín ngưỡng Thần Phật
Điều độc đáo về chùa ở Ninh Bình là việc chúng được xây dựng trong các hang động đẹp, được vua chúa đến thăm và đặt tên chùa. Ninh Bình có khoảng 15 chùa nổi tiếng như: chùa Bàn Long xã Ninh Xuân, huyện Hoa Lư; chùa Hoa Sơn xã Ninh Hoà, huyện Hoa Lư; chùa Đìa, chùa Am, chùa Am Tiêm xã Trường Yên, huyện Hoa Lư; chùa Phong Phú, chùa Trung Trữ xã Ninh Giang, huyện Hoa Lư; chùa Động Mát xã Yên Sơn, thị xã Tam Điệp; chùa Hang xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, v.v.
Trong đó, chúa Trịnh Sâm đã đến thăm và đặt tên cho chùa Bàn Long và chùa Bích Động. Chùa Địch Lộng đã được vua Minh Mạng đến thăm và tặng cho 5 chữ “Nam thiên đệ tam động”. Năm 1842, vua Thiệu Trị cũng đến thăm chùa Địch Lộng và ban tặng cho chùa 100 quan tiền. Còn vua Tự Đức thì đến thăm và đặt tên cho chùa Hoa Sơn.
Một ngôi chùa khác cũng không kém phần nổi tiếng là chùa Nhất Trụ hay còn gọi là chùa Một Cột. Ngôi chùa này được xây dựng vào thế kỷ thứ X. Chùa còn lưu giữ được nhiều cổ vật gắn với lịch sử hình thành kinh đô Hoa Lư, nổi bật nhất là cây cột kinh Phật bằng đá trước sân chùa. Đây là một bảo vật quốc gia đang được các nhà nghiên cứu lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới.
Tín ngưỡng tôn kính Thần Phật cũng là một nét văn hóa độc đáo tạo nên những kỳ tích của vùng đất thiêng, nơi có nhiều danh thắng đẹp mê mẩn lòng người.
Văn hóa dân gian
Đặc biệt, trong di sản văn hoá Ninh Bình, phải kể đến văn hoá dân gian được hình thành rất sớm, đồng hành và trải dài suốt tiến trình lịch sử dân tộc. Di sản văn hoá dân gian ở Ninh Bình tập trung khá nhiều ở các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp, Yên Mô, vốn là những vùng đất cổ.
Ninh Bình còn là vùng quê của ca nhạc cổ truyền của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những dịp làng quê mở hội truyền thống sẽ có múa rồng, múa lân, múa sư tử, kéo chữ, đánh đu, đấu vật chọi gà, và cả ca nhạc nữa… Nhiều thể loại ca hát – diễn xướng dân gian cùng với nhiều lễ hội cổ truyền mang đậm sắc thái của nền văn minh lúa nước đồng bằng Bắc Bộ. Những loại hình âm nhạc tiêu biểu là hát – diễn chèo, tuồng, múa rối, hát ru, cò lả, hát xẩm, hát văn, ca trù, đối đáp giao duyên… Ninh Bình cũng là cái nôi của hát – diễn chèo từ thời vua Đinh.
Văn học dân gian Ninh Bình khá đa dạng, phong phú cả về đề tài, thể loại và số lượng. Song phong phú và đa dạng hơn cả là ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyền thuyết, cổ tích và giai thoại, đặc biệt là những truyện kể dân gian. Có những huyền tích lý giải sự ra đời của những ngọn núi, dòng sông, tên làng, tên đất… Lại có những huyền sử về các nhân vật lịch sử như vua Đinh, vua Lê.
Một yếu tố khác vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ làm nên diện mạo của văn hoá Ninh Bình là những dấu ấn văn hoá của các tao nhân mặc khách khi qua những vùng sơn thanh thuỷ tú nơi đây. Đơn cử như tại ngọn núi Dục Thúy Sơn còn lưu lại hơn 40 bài thơ cổ khắc trên đá núi. Nhân cách của các tao nhân mặc khách đã thấm vào văn hoá địa phương, được nhân dân tiếp thụ, sáng tạo, làm giàu thêm sắc thái văn hoá Ninh Bình.
Văn hoá ẩm thực Ninh Bình cũng có những nét đặc thù riêng của nền văn minh lúa nước. Mỗi vùng miền trên dải đất này lại có những món đặc sản riêng làm say lòng du khách. Ví như vùng đất mở Kim Sơn nổi tiếng với những bát bún mọc, nhâm nhi với ly rượu nếp Lai Thành. Bún mọc nơi đây mang một nét đặc trưng khá độc đáo. Để có được bát bún ngon, người làm bún phải rất kỳ công từ khâu chọn gạo xay, sàng, lọc sao cho khi chế biến sợi bún trắng, dẻo, săn tròn. Việc làm mọc còn cầu kỳ hơn. Thịt phải là thịt bắp, lọc hết gân mỡ ra mới cho xay giã, ướp gia vị, viên thành từng viên nhỏ, thả vào nồi nước sôi, sau 7 đến 10 phút, viên mọc đã nổi lên trên mặt nước trắng hồng, trong suốt, một mùi thơm ngọt lan nhẹ xung quanh.
Nói về chén rượu nếp Lai Thành, những người cao niên ở đất Lai Thành cho biết: Muốn có rượu ngon cũng phải dày công lắm, bởi không chỉ có men gia truyền, nước phải từ giếng khơi mà thứ gạo nếp để nấu rượu cũng phải chọn đất để cấy. Có như vậy rượu mới thơm, trong, sóng sánh và chỉ nhấp nhẹ một ngụm đã cảm nhận được dư vị đặc biệt của nó, cay ngọt, lâng lâng lan toả khắp cơ thể.
Có thể nói, sắc màu, dư vị của những món ăn, thức uống Ninh Bình được chế biến, chưng cất với cả một nghệ thuật, kỹ năng dày công tích luỹ.
Thanh Phong
Xem thêm:
Mời xem video:
Từ khóa Văn hóa vùng miền Hoa lư Ninh Bình