Dù chỉ tồn tại 58 năm, nhưng nước Vạn Xuân đã trải qua 3 đời vua, đằng sau đó là câu chuyện về những con người quả cảm, mong muốn xây dựng một vùng đất thịnh vượng mãi mãi.

Tiếp theo phần 2, tại đầm Dạ Trạch, Triệu Quang Phục củng cố lại lực lượng, ban đêm chia quân dùng thuyền độc mộc tiến đánh quân Lương, rồi lại rút vào trong đầm, khiến quân Lương bị thiệt hại nhiều. Người dân vì thế gọi Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương.

Triệu Việt Vương
(Tranh minh họa: Họa sĩ Sỹ Hòa, Báo Bình Phước Online)

Vẫn giữ xưng vương chứ không xưng đế

Năm 548, nghe tin Lý Nam Đế đã mất, Triệu Quang Phục tự xưng là Triệu Việt Vương nhằm hiệu triệu dân chúng theo mình khôi phục lại đất nước Vạn Xuân.

Trong khi đó, Trần Bá Tiên mưu tính cô lập Dạ Trạch, giữ chặt lương thảo, nhằm khiến quân Vạn Xuân hết lương, quân sĩ mệt mỏi, từ đó mà tiêu diệt quân Vạn Xuân.

Thế nhưng trong khi Trần Bá Tiên thực hiện kế sách này thì nhà Lương lại có biến. Hầu Cảnh lợi dụng mâu thuẫn giữa các con cháu nhà Lương muốn giành ngôi vua mà làm phản, đem quân đánh kinh thành Kiến Khang, rồi vây vua Lương Vũ Đế ở Đài Thành (tức Cung Thành, Nam Kinh).

Phải nhanh chóng về nước, Trần Bá Tiên bèn cho Dương Sàn ở lại thống lĩnh binh mã. Triệu Quang Phục nghe tin liền cho quân bất ngờ đánh Dương Sàn. Dương Sàn không chống nổi và bị giết chết, tàn quân Lương chạy về phương Bắc.

Cuối năm 550, Triệu Quang Phục lên ngôi vua, khôi phục lại nước Vạn Xuân, định đô ở thành Long Uyển (đến nhà đường gọi là thành Long Biên).

Triệu Việt Vương
Bản đồ lãnh thổ nước Vạn Xuân. (Tranh: I Love Triệu Đà, Wikipedia, CC0 1.0)

Tuy lên ngôi vua, nhưng Triệu Quang Phục vẫn giữ xưng vương chứ không xưng đế. Phải chăng ngài nghĩ rằng thế lực chưa đủ mạnh, hay là ngài cảm nghĩa trước đây được Lý Nam Đế trao binh quyền, giờ làm tròn bổn phận, làm tròn mơ ước “Vạn Xuân”, thì cũng không muốn quá phận? Dẫu sao ngài vẫn là một người kế vị xứng đáng, lại có công thao lược, đánh đuổi ngoại xâm…

Nương tay với hậu duệ của cố nhân

Năm 555, sau khi lên ngôi vương nước Dã Năng được 6 năm, Đào Lang Vương Lý Thiên Bảo mất. Do vương không có con nối dõi, mọi người bèn suy tôn cháu họ Lý Nam Đế là Lý Phật Tử lên nối ngôi.

Khi Vạn Xuân đã có được cảnh thái bình thì Lý Phật Tử lại ham muốn quyền lực, cho rằng mình mới là người kế vị chính thống, quyết giành ngôi vua nước Vạn Xuân. Năm 557, Lý Phật Tử đưa quân vào đánh với quân của Triệu Việt Vương ở Thái Bình.

Hai bên có 5 lần giáp chiến lớn, lần nào quân của Triệu Việt Vương cũng ngăn được quân của Lý Phật Tử. Đại Việt sử ký toàn thư có chép rằng:

“Đinh Sửu, năm thứ 10, Lý Phật Tử đem quân xuống miền Đông đánh nhau với vua [Triệu Việt Vương] ở huyện Thái Bình, năm lần giáp trận, chưa phân thắng bại, mà quân của Phật Tử hơi lùi, ngờ là vua có thuật lạ, bèn giảng hòa xin ăn thề.”

Triệu Việt Vương có lẽ đã nương tay với hậu duệ của cố nhân, nên mới có chuyện hai quân chưa phân thắng bại, mà Lý Phật Tử đột nhiên xuống nước xin được giảng hòa. Lý Phật Tử hẳn cũng hiểu rằng Triệu Việt Vương – vị Dạ Trạch Vương lão luyện từng dẫn quân Vạn Xuân đánh bại quân Lương – đã nương tay với mình.

Nhận được lời cầu hòa, Triệu Việt Vương nghĩ rằng mình và Lý Phật Tử dù sao cũng người một nhà, từng cùng theo Lý Bí kiến lập nước Vạn Xuân, nên đồng ý. Ông lấy bãi Quân Thần (nay là Bắc Từ Liêm, Hà Nội) làm ranh giới, phía tây thuộc về Lý Phật Tử. Lý Phật Tử cũng xin thề suốt đời giữ hòa hiếu giữa hai bên.

Phụ lời thề Lý Phật Tử bất ngờ dấy binh

Lý Phật Tử được thêm đất, liền dời đến ở thành Ô Diên (xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Hà Nội ngày nay), đồng thời ngỏ ý muốn con trai Nhã Lang của mình được kết hôn với con gái Cảo Nương của Triệu Việt Vương.

Hai thuộc tướng của Triệu Việt Vương là anh em Trương Hống, Trương Hát đã hết lòng khuyên can Triệu Việt Vương không nên đồng ý cuộc hôn nhân này, đồng thời nói rõ bài học Trọng Thủy, Mỵ Châu xưa kia. “Đại Nam quốc sử diễn ca” có mô tả việc này như sau:

Có người: Hống, Hát họ Trương
Vũ biền nhưng cũng biết đường cơ mưu,
Rằng: “Xưa Trọng Thuỷ, Mỵ Châu,
Hôn nhân là giả, khấu thù là chân.
Mảnh gương vãng sự còn gần,
Lại toan dắt mối Châu Trần sao nên?”

Thế nhưng vì muốn hai bên mãi được thái bình, Triệu Việt Vương không nghe lời khuyên can, đồng ý cuộc hôn nhân, đồng thời lại đồng ý cho Nhã Lang ở rể, vốn không phải là một điều bình thường. Trong thời gian ở rể, Nhã Lang đã tìm hiểu hết cách bố phòng quân của Triệu Việt Vương rồi về báo lại toàn bộ cho Lý Phật Tử.

Năm 571, Lý Phật Tử phụ lời thề cho quân bất ngờ đánh úp quân của Triệu Việt Vương. Trong thế trận bị đánh bất ngờ, lại bị lộ hết cách bố phòng, Triệu Việt Vương không thể chống đỡ nổi đành bỏ chạy tìm nơi hiểm yếu. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Triệu Việt Vương chạy đến cửa biển Đại Nha thì cùng đường, không còn lối thoát, đành nhảy xuống biển tự vẫn…

Lý Phật Tử xuôi đông gây hấn
Triệu Việt Vương dừng bước hơn thua
Năm lần đụng trận năm lần thắng
Chiến địa mang mang ngọn gió lùa

Một lần Phật Tử xin hòa giải
Triệu Vương thành ý bỏ binh đao
Cùng nguồn quân trước quân sau ấy
Mà cứ thù nhau có lẽ nào?

Nghĩa tình họ Lý thời Nam Đế
Nhượng đất Quân Thần bãi phân ranh
Đôi bên lân quốc không xâm lấn
Ai bỗng lừa ai để chiếm thành

Bao năm đất nước bình yên lắm
Ai nỡ gây chi một vết hằn
Sử xanh còn đó trêu tên tuổi
Phụ tình lấy nước được gì chăng

Đánh bại được Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử lên ngôi vua, ông cho mời hai anh em Trương Hống, Trương Hát làm quan cho mình, nhưng hai anh em không đồng ý về ở ẩn trên núi Phù Long. Lý Phật Tử bèn cho người lùng bắt, hai anh uống thuộc độc, thà chết vẫn trung thành với Triệu Việt Vương.

Nhận định về Lý Phật Tử, sử thần Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau:

“Lấy bá thuật mà xét thì Hậu [Lý] Nam Đế đánh Triệu Việt Vương là đắc kế, lấy vương đạo mà xét thì việc ấy đã từng không bằng chó lợn. Sao thế? Là vì khi Tiền Lý Nam Đế ở động Khuất Lạo đem việc quân ủy cho Triệu Việt Vương. Việt Vương thu nhặt tàn quân giữ hiểm ở Dạ Trạch bùn lầy, đương đầu với Trần Bá Tiên là người hùng một đời, cuối cùng bắt được tướng của y là Dương Sàn. Tiên, người phương Bắc, phải lui quân. Bấy giờ vua [Hậu Nam Đế] trốn trong đất Di [Lạo], chỉ mong thoát khỏi miệng hùm mà thôi. May mà Bá Tiên về Bắc, [Lý] Thiên Bảo chết, mới đem quân đánh [Triệu] Việt Vương, dùng mưu gian trá xin hòa, kết làm thông gia. Việt Vương lấy lòng thành đối đãi, cắt đất cho ở, những việc làm của Việt Vương đều là chính nghĩa, giao hảo phải đạo, thăm viếng phải thời, há chẳng phải là đạo trị yên lâu dài hay sao? Thế mà [Hậu Nam Đế] lại dùng mưu gian của Nhã Lang, vứt bỏ chính đạo nhân luân, kíp tham công lợi mà diệt nhân nghĩa, đánh cướp lấy nước, tuy rằng lấy được, mà Nhã Lang thì chết trước, bản thân cũng không khỏi làm tù, có lợi gì đâu?”

Lý Phật Tử lên ngôi xưng là Lý Nam Đế, để phân biệt ông với Lý Bí nên lịch sử gọi là Hậu Lý Nam Đế. Từ đây Vạn Xuân có được cảnh thái bình 30 năm.

Trong nước không có người…

Trần Bá Tiên sau khi về nước dẹp hết đám phản loạn trong nước, lên ngôi lập ra nhà Trần (lịch sử gọi là nhà Nam Trần), xưng là Trần Vũ Đế. Tuy nhiên sau 2 năm lên ngôi thì Trần Vũ Đế bị bệnh rồi mất.

Năm 589, nhà Tùy diệt nhà Trần. Năm 602, Lệnh Hồ Ly theo lệnh của vua Tùy sai sứ sang Vạn Xuân thúc dục Lý Phật Tử sang chầu. Lý Phật Tử xin khất đến tháng 11 sẽ lên đường. Lệnh Hồ Ly vốn chỉ muốn ràng buộc Lý Phật Tử nên bằng lòng theo lời xin. Thế nhưng có người báo với vua Tùy rằng Lệnh Hồ Ly đã nhận tiền của Lý Phật Tử.

Vua Tùy liền sai bắt Lệnh Hồ Ly rồi đưa quân sáng đánh Vạn Xuân. Thừa tướng Dương Tố tiến cử Lưu Phương thống lãnh 27 doanh quân sang đánh. Lưu Phương người Trường An, có tài làm tướng, ra kỷ luật quân binh rất nghiêm, ai vi phạm đều chém; nhưng Lưu Phương cũng rất nhân ái yêu thương binh sĩ, ai ốm đau cũng đến hỏi thăm và ưu tiên cho họ; vì thế mà quân sĩ vừa mến lại vừa sợ uy.

Quân Tùy đến núi Ô Long (tức núi Tụ Long trước đây thuộc tỉnh Hà Giang, nay thuộc Vân Nam, Trung Quốc) thì gặp quân Vạn Xuân. Lưu Phương đánh tan quân binh Vạn Xuân tại đây rồi kéo đến thành Cổ Loa đánh Lý Phật Tử. Trong thành Lý Phật Tử sợ hãi xin hàng. Nước Vạn Xuân bị mất.

Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn rằng:

“Nam – Bắc mạnh yếu đều có từng lúc. Đương khi phương Bắc [22b] yếu thì ta mạnh, phương Bắc mạnh thì ta cũng thành yếu. Thế lớn trong thiên hạ là như vậy. Phàm kẻ có nước phải sửa sang giáp binh, chỉnh đốn xe cộ quân lính, phòng bị việc bất ngờ, đặt hiểm để giữ nước, lấy lễ mà thờ nước lớn, lấy nhân mà vỗ nước nhỏ. Ngày nhàn rỗi thì dạy điều hiếu, đễ, trung, tín để cho người trong nước biết rõ cái nghĩa kính thân người trên, chịu chết cho người trưởng. Khi có họa xâm lăng thì phải dùng lời văn để sửa đổi ý định của họ, dùng lời nói mà bảo họ, lấy lễ vật ngọc lụa mà biếu cho họ. Như thế mà vẫn không tránh được, thì dù đến khốn cùng cũng phải quay lưng vào thành mà đánh một trận, thề tử thủ cùng với xã tắc mất còn, rồi sau mới không hổ thẹn. Lẽ nào mới thấy quân giặc đến cõi, chưa xáp binh đao, đã sợ hãi xin hàng! Vua đã hèn nhát mà tướng văn, tướng võ đương thời không ai từng có một lời nào nói đến, có thể bảo là trong nước không có người vậy!”

*******

Lịch sử 58 năm của Vạn Xuân, từ năm 544 khi Lý Bí đánh bại quân Lương, lập ra nước Vạn Xuân, cho đến năm 602, khi Lý Phật Tử đầu hàng, có hai hình ảnh cảm động được lưu lại:

Đó là hình ảnh nữ tướng Phạm Thị Toàn ra Bắc đánh quân Lương, vào Nam đánh quân Lâm Ấp, lần nào cũng dũng mãnh tiên phong lập công lớn. Nhưng khi đất nước thái bình, Lý Nam Đế ngỏ lời phong vương phi, thì bà lại khéo léo từ chối về quê dựng chùa đi tu.

Một hình ảnh khác là Triệu Việt Vương thao lược đánh bại quân Lương, nhớ tình Lý Bí mà không xưng đế, vì con của cố nhân mà nương tay, vì nhân nghĩa thái bình mà chia thêm đất cho Lý Phật Tử.

(Hết)

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video: