Việc làm ra phải có “tín” – Từ xưa đến nay, đây được coi là chuẩn tắc căn bản nhất của con người. Trong văn hóa truyền thống, không chỉ với người trên hay kẻ dưới, giữa đồng nghiệp hay bạn bè, mà trong tình yêu cũng nhất định phải giữ lời hứa.

Không như nhiều người hiện đại tưởng tượng rằng người xưa chỉ có chuyện “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, trong xã hội phương Đông cổ xưa vẫn luôn tồn tại việc nam nữ tìm hiểu và phát sinh tình yêu. Vậy thì điểm khác nhau giữa thời nay và thời xưa là gì? Tình yêu là một phần không thể thiếu của con người, nên tất nhiên là cổ nhân sẽ không cấm tuyệt. Nhưng bởi vì nó là một phần có ảnh hưởng rất lớn tới tâm tư tình cảm của con người (nhất là con trẻ mới lớn), cũng ảnh hưởng tới sự chính thường của xã hội, nên cổ nhân cũng đưa ra những yêu cầu về “Lễ”, về “Nghĩa”.

Quan niệm tình yêu truyền thống: Giữ lời hứa
(Ảnh minh họa: Shin Sang Eun, Shutterstock)

Trong Kinh Thi có mô tả rất rõ nhìn nhận của người xưa về tình yêu nam nữ. Chẳng hạn thiên Quan thư, chương thứ nhất có viết:

Quan quan thư cưu,
Tại hà chi châu.
Yểu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu.

Dịch nghĩa là:

Đôi chim thư cưu hót họa nghe quan quan,
Ở trên cồn bên sông.
Người thục nữ u nhàn,
Phải là lứa tốt của bực quân tử.

Dịch thơ:

Quan quan kìa tiếng thư cưu,
Bên cồn hót họa cùng nhau vang dầy.
U nhàn thục nữ thế này,
Xứng cùng quân tử sánh vầy lứa duyên.

“Thư cưu” là loài chim nước, sống trong khoảng Trường giang và sông Hoài. Loài chim này sống có đôi nhất định mà không hề lẫn lộn. Hai con thường lội chung mà không lả lơi, cho nên sách cổ nói rằng: đôi chim thư cưu tình ý chí thiết khăn vó đậm đà, nhưng lúc nào cũng giữ gìn cách biệt. Sách “Liệt nữ truyện” cho là người ta chưa từng thấy chim thư cưu sống dư cặp hay sống lẻ loi, là vì tính nó như thế.

Người xưa ví tình yêu nam nữ cũng giống như loài chim thư cưu kia, có lễ độ, cũng có tín nghĩa. Đây chính là điều cơ bản cần làm được. Có một câu chuyện tình yêu vừa đẹp vừa thê lương thời xưa tên là “Vĩ Sinh bão trụ” nói về mỹ đức “thủ tín” của người xưa trong tình yêu.

Chuyện kể rằng, Vĩ Sinh là người nước Lỗ, vốn là một Nho sinh, tính tình hiền hậu, luôn luôn giữ chữ tín. Vĩ Sinh nổi tiếng văn hay. Trong trường, bài của Vĩ Sinh thường được thầy đem ra bình. Gần trường là nhà viên ngoại họ Triệu có nàng con gái tên Thường Khanh. Giờ bình văn, nàng thường sang trường, đứng sau vách nghe trộm. Sau nhiều lần như thế, trong lòng Thường Khanh có tình cảm dù chưa nói ra.

Vĩ Sinh mỗi lần đến trường, đi qua vườn hoa của viên ngoại họ Triệu đều nhìn thấy bóng nàng Thường Khanh đang hái hoa. Trong lòng Vĩ Sinh cũng đã phát sinh yêu mến nhưng chưa dám mở lời. Cuối cùng một lần, Vĩ Sinh bạo dạn đứng lại, hỏi xin nàng một cành hoa. Thường Khanh e lệ cười, cầm hoa trao tặng cho Vĩ Sinh.

Ngày nào cũng thế, mỗi khi Vĩ Sinh đi qua thì đã có nàng Thường Khanh thăm vườn ở đó. Họ tuy không hẹn gặp nhưng lại gặp nhau như đã có hẹn. Một hôm Vĩ Sinh xin hẹn gặp Thường Khanh bên một đầu cầu phía Tây thôn, để có thời gian trao đổi tâm sự, kết niềm giao ước. Thường Khanh nghe xong, rất vui vẻ bằng lòng.

Hôm đó chàng Vĩ Sinh đến bên cầu chờ đợi, nhưng không thấy bóng nàng Thường Khanh đến. Thế rồi, bỗng mây kéo đen kịt một góc, trời tối sầm lại. Mưa rơi mỗi lúc càng nặng hơn. Vì giữ chữ tín và lo lắng Thường Khanh ra cầu sẽ bị ủy khuất, Vĩ Sinh vẫn đứng chờ mà không về. Chàng xuống dạ cầu để tránh đỡ. Gió giật mạnh từng hồi như muốn xô đổ cây cối. Vĩ Sinh vẫn cố ôm lấy cột cầu chờ đợi. Mưa băng gió quật, nước dưới cầu mỗi lúc một dâng cao, dòng nước xiết chảy.

Chàng thư sinh cuối cùng bị cuốn theo dòng, chết đuối dưới sông.

Câu chuyện về chàng Vĩ Sinh trong “Chiến quốc sách”, “Hán Thư”, “Sử ký”, hay trong rất nhiều lời đàm luận về “thủ tín” của người xưa đều có ghi lại. Có thể thấy rằng, cổ nhân rất coi trọng lời hứa giữa nam và nữ. Vì sao họ lại coi trọng lời hứa đến như vậy?

Thực ra chữ Tín trong tình yêu không chỉ có trong văn hóa truyền thống phương Đông, khi người phương Tây vào nhà Thờ làm lễ thành hôn, cũng là thề nguyện trước Chúa. Đây là quan niệm đạo đức cơ bản phổ quát của nhân loại thời xưa.

Trong văn hóa truyền thống phương Đông, người ta cho rằng lời một khi đã nói ra thì Trời Đất đều biết. Một khi giữa nam và nữ có tình cảm với nhau thì người nam nhất định phải có trách nhiệm với người nữ, phải từ đầu đến cuối đối xử tốt với người con gái ấy. Người nam phải làm được như thế thì người nữ mới có thể an tâm phó thác bản thân mình.

Cho nên trong quan niệm truyền thống, người xưa cho phép nam nữ có tình yêu, cho phép nam nữ phát sinh tình cảm, nhưng từ đầu đến cuối là có tiết chế, không giống như người hiện đại, phóng túng, “tự do yêu đương”, “giải phóng tình dục”. Bởi vì cái gọi là “tự do”, “giải phóng” này bên trong nó là có hàm ý không cần tiết chế, cũng không cần thủ tín, nên tất yếu sẽ gây ra tai họa cho gia đình và xã hội.

Người xưa từ khi phát sinh tình cảm đã là như vậy, nên lễ độ, tín nghĩa thẩm thấu vào hôn nhân. Người nam khi đã là chồng rồi thì phải gánh vác công việc nặng nhọc, đảm đương những điều lớn lao, không chỉ biết lo cho gia đình mà còn biết lo cho xã hội. Người nữ khi đã là vợ rồi cũng phải cố gắng chưởng quản việc trong gia đình, chăm sóc cha mẹ, nuôi dạy con cái. Đây vừa là trách nhiệm, vừa là tiêu chuẩn đánh giá phẩm đức của tình yêu và hôn nhân truyền thống.

Theo Vision Times tiếng Trung
An Hòa biên tập

Xem thêm:

Mời xem video: