Dã sử chép rằng, đối mặt với nữ Đại tướng quân của Lĩnh Nam, Mã Viện thảm bại phải dâng biểu về Triều đình xin thêm viện binh, trong đó có viết: “Nam bang có nữ tướng Thánh Thiên dụng binh như thần, trí dũng thiên phương, không sao phục được. Xin bệ hạ phái thêm các tướng giỏi và tiếp thêm quân sĩ sang giúp sức”. Vậy nữ tướng Thánh Thiên là ai?

Nữ tướng Thánh Thiên: “Dụng binh như thần, trí dũng thiên phương”
(Tranh minh họa: Họa sĩ Sỹ Hòa, Báo Bình Phước Online)

Theo dân gian lưu truyền, thời ấy tại làng Bích Uyển thuộc phủ Kinh Môn, quận Hải Dương có vị quan cùng vợ về quê ở ẩn tên là Nguyễn Huyến, gia đình vốn thuộc dòng tướng quân. Sau phu nhân mang thai, một lần nằm mộng thấy có người con gái “tự nơi dương đình khâm thụ mệnh Trời, xuống đầu nhập thai sinh”.

Sau 13 tháng mang thai, giữa ngày 12 tháng 2 năm Ngọ, phu nhân sinh hạ được một gái mày ngài, mắt phượng, tướng mạo oai nghiêm. Vợ chồng rất yêu quý con. Không rõ nàng được đặt tên là gì, trong Thần phả chỉ gọi nàng là Thánh Thiên công chúa.

Thánh Thiên thông minh đĩnh ngộ, học một biết mười, năm lên 9 tuổi tam phần, ngũ điển, lục thao, tam lược đều quán thông. Năm 12 tuổi đã có tài văn chương, thông thạo võ thuật.

Ông Nguyễn Huyến thường ngày vẫn đem tâm sự gửi gắm trong mấy câu thơ ngâm nga:

Từ khi thất quốc, vong gia,
Vợ chồng, con cái đến nhờ thuyền môn.
Lòng riêng báo quốc không chồn,
Bình lương chứa chất luôn luôn đã nhiều.
Ai tài chửa thấy ai theo,
Một mình công việc trăm chiều khó đương.

Khi Thánh Thiên được 16 tuổi thì mồ côi cả cha mẹ. Vốn từ nhỏ đã thông võ thuật lại chăm chỉ đèn sách, nhận thấy cơ hội đã đến, Thánh Thiên bèn chiêu mộ quân sĩ khởi nghĩa chống lại nhà Hán.

Nghe tin cậu của mình từ quan, chiêu mộ trai tráng chống lại nhà Hán, Thánh Thiên đã cho quân kéo đến Ngọc Lâm phối hợp với cậu mình, xây dựng căn cứ lớn ở Ngọc Lâm, ngoài việc thao dợt binh sĩ, còn khai hoang để tích trữ lương thảo, lập các lò rèn để trang bị vũ khí.

Nhờ chuẩn bị kỹ lưỡng, nên quân của Thánh Thiên đã có nhiều trận thắng lớn, uy danh một phương.

Thời điểm này các cuộc khởi nghĩa có rất nhiều, nhưng lại không có sự liên kết giữa các nơi. Chính vì vậy cuối năm 39 sau Công Nguyên, Hai Bà Trưng khởi nghĩa, hiệu triệu tất cả các thủ lĩnh cùng quy tụ về. Thánh Thiên cũng như hàng chục thủ lĩnh khác kéo quân về dưới cờ của Hai Bà Trưng.

Năm 40 sau Công Nguyên, Hai Bà Trưng xuất quân. Đại hội quân sĩ được tổ chức tại Hát Môn, Trưng Trắc lập đàn tráng, cáo lễ với trời đất, tự xưng là Trưng Nữ Vương, rồi chia quân tiến đánh các nơi.

Thánh Thiên cho quân đánh đuổi quân Hán đến tận thủ phủ Luy Lâu (thuộc Bắc Ninh ngày nay), Thái thú Tô Định cùng quân Hán chạy trối chết về nước. Thánh Thiên cùng các tướng quét sạch quân Hán ra khỏi bờ cõi, tận đến biên giới là hồ Động Đình. Trưng Vương lên ngôi Vua và đặt tên nước là Lĩnh Nam.

Nữ tướng Thánh Thiên: “Dụng binh như thần, trí dũng thiên phương”
Bản đồ Lĩnh Nam. (Tranh: Capon, Wikipedia, CC BY 3.0)

Đầu năm 42 sau công nguyên, vua Hán Quang Vũ sai Phục ba tướng quân Mã Viện cùng Phó tướng Lưu Long và Đoàn Chí đưa quân tiến đánh Lĩnh Nam, Thánh Thiên được lĩnh ấn “Bình Ngô Đại tướng quân” tức chỉ huy toàn quân chống lại quân Hán. Bà cắt cử các cánh quân chống giữ nơi biên ải.

Mã Viện cùng phó tướng Lưu Long tiến đánh hồ Động Đình, nơi đây có tướng quân Phật Nguyệt chống giữ. Theo một số nhà nghiên cứu thì quân của Phật Nguyệt chỉ có 7 vạn quân chống với 30 vạn của Mã Viện. Tuy nhiên số liệu này chưa được thuyết phục vì vào thời nhà Minh đô hộ thì những nguồn sử liệu của nước ta bị chở về Kim Lăng, bị tiêu hủy và thất lạc mất.

Quân của Mã Viện lúc đầu không sao tiến vào được hồ Động Đình, xác chất thành gò. Mã Viện phải xin thêm viện binh tinh nhuệ mới tiến vào được. (Xem bài: Vị nữ tướng nước Nam “một tay nhổ núi Nga Mi, một tay nhổ núi Thái Sơn”)

Nhận thấy các chiến thuyền của mình to lớn hơn quân Lĩnh Nam, Mã Viện quyết định hợp quân ở Hợp Phố, nhằm tận dụng đường biển đánh vào quận Giao Chỉ. Tuy nhiên tại Hợp Phố, “Bình Ngô Đại tướng quân” Thánh Thiên đã chờ sẵn.

Cùng với trận chiến hồ Động Đình, trận chiến Hợp Phố là trận đánh nổi tiếng trong sử Việt trước đây. Mã viện 3, 4 lần cho toàn quân tiến đánh nhưng đều đại bại, thây chết ngổn ngang. Không chỉ thế, Thánh Thiên còn tiến đánh khiến Mã Viện phải cho quân lui về Mã Giang.

Thánh Thiên
(Tranh: Wikipedia, CC)

Bị quân Lĩnh Nam chặn các ngả đường không tiến được, Mã Viện một lần nữa phải phải dâng biểu về triều đình xin thêm tướng giỏi và quân tinh nhuệ giúp sức: “Nam bang có nữ tướng Thánh Thiên dụng binh như thần, trí dũng thiên phương, không sao phục được. Xin bệ hạ phái thêm các tướng giỏi và tiếp thêm quân sĩ sang giúp sức”.

Vua Hán lập tức cho thêm quân tướng tinh nhuệ sang giúp Mã Viện cùng mật truyền: “Nên dùng mưu mà đánh”.

Có thêm quân tinh nhuệ, Mã Viện cũng không tiến đánh Thánh Thiên mà chia làm 2 cánh thủy bộ, cánh quân bộ tiến chiếm Thương Ngô rồi cho quân đi ngầm qua Quỷ Môn quan (ải Chi Lăng thuộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay) lẻn xuống vùng Lục Đầu rồi tiến ngược lên Lãng Bạc, cánh quân thủy bí mật xuống các chiến thuyền lớn ở Hợp Phố rồi theo đường biển đến Lãng Bạc. Hai cánh quân thủy bộ của quân Hán hội tại Lãnh Bạc (thuộc Tiên Du ngày nay).

Hai Bà Trưng cho quân rút đến Cẩm Khê lập căn cứ để chống quân Hán. Những nghiên cứu mới đây cho thấy Cẩm Khê có thể ở thung lũng Suối Vàng, ở chân ngọn núi Vua Bà cao 525m, trong dãy Ba Vì thuộc Hà Tây.

Quân Hán tiến đánh Cẩm Khê, các trận đánh rất ác liệt từ mùa hè năm 42. Đến mùa xuân năm 43 thì Cẩm Khê thất thủ.

Từ mạn Bắc, Thánh Thiên nghe tin Cẩm Khê thất thủ liền đưa quân về tiếp ứng nhưng không kịp, liền đưa quân đóng ở sông Nhật Đức (tức sông Thương ngày nay). Quân Hán tiến đánh với chiến thuật chia cắt đội hình, quân của Thánh Thiên không thích nghi được nên thất trận phải rút về Ngọc Lâm.

Quân Hán tiến đánh Ngọc Lâm, trong trận giao tranh ác liệt, bị bao vây tứ phía, Thánh Thiên đánh đến kiệt sức rồi hy sinh tại bến Ngọc (tên chữ là Ngọc Chử, là một bến của con sông nhỏ Đa Mai) thuộc địa phận làng Ngọc Lâm ngày nay.

Cảm phục trước khí tiết của Thánh Thiên, người dân làng Ngọc Lâm đã lập miếu thờ ở bên bến Ngọc.

Về sau ngôi miếu này được xây dựng khang trang thành đền Ngọc Lâm, hiện trong Đền vẫn còn câu đối ca ngợi Bình Ngô Đại tướng quân:

Đông hải chung anh, thiên vị Trưng triều sinh nữ tướng,
Bắc nhung kinh phách, nhân ư Ngọc chử ngưỡng thần uy.

Nghĩa là:

Nhân khí bể Đông, trời giúp nhà Trưng sinh nữ tướng,
Kinh hồn giặc Bắc, người nơi bến Ngọc ngưỡng thần uy.

Trong dân gian có lưu truyền bài thơ về Đại tướng quân Thánh Thiên:

Thiên địa sinh ngô nữ tử thân
Trung chi ư quốc, hiếu ư thân
Càn khôn bất phụ tang bồng chí
Khả miễn tam quân quốc sự cần

Nghĩa là:

Trời đất sinh ta thân con gái
Trung lòng với nước, hiếu mẹ cha
Trời đất chẳng phụ người có chí
Chẳng bỏ việc quân, việc nước cần

Hàng năm cứ vào ngày 11 tháng 2 âm lịch (ngày sinh của Thánh Thiên), đền Ngọc Lâm có tổ chức lễ hội lớn để tưởng nhớ đến nữ Đại tướng quân.

Trần Hưng

Xem bài:

Mời xem video: