Khi triều đại nhà Đường đi đến hồi kết ở Trung Hoa, Ngũ Đại Thập Quốc bước lên đài lịch sử. Trong bối cảnh Ngũ Đại phân tranh loạn thế đã xuất hiện một vị hòa thượng luôn thong dong tiêu sái, bước đi với nụ cười trên môi, với tấm lòng rộng lượng nhẫn chịu được những điều mà con người thế gian khó nhẫn. Ông là hòa thượng Bố Đại, nhân vật truyền kỳ nhất thời Ngũ Đại. 

Hoa thuong Bo Dai 03
(Tranh: Utagawa Kuniyoshi, British Museum, Wikipedia, Public Domain)

Trong “Cao tăng truyện” có chép rằng Bố Đại hòa thượng còn được gọi là Thiền sư Trường Đinh Tử Bố Đại. Về xuất thân của ông cũng có một chút truyền kỳ. Tương truyền vào những năm cuối thời nhà Đường, trên suối Long Khê ở Phụng Hóa, Minh Châu có một bó củi trôi xuống, trên bó củi có một đứa trẻ. Trương Trọng Thiên ở thôn Trường Đinh nhìn thấy đứa bé này chân tay bụ bẫm mập mạp lại luôn nhoẻn miệng cười ngây thơ thì rất mừng rỡ, bèn ôm lấy mang về, phát hiện ra đứa bé được lót bởi một chiếc bao vải màu xanh. Trương Trọng Thiên nuôi nấng đứa bé, đặt tên là Khiết Thử. Bởi vì đứa bé lớn lên ở thôn Trường Đinh nên về sau có tên hiệu là Trường Đinh Tử.

Sau khi Khiết Thử lớn lên, ông đã đến một ngôi chùa quy y xuất gia. Ông dùng một cây thiền trượng, trên có buộc một cái túi vải rồi một mình đi vân du khắp thiên hạ. Ông xin được đồ ăn gì thì ăn thứ ấy, hết thảy những gì xin được ông đều bỏ vào trong túi vải, dó đó mọi người gọi ông là “Bố Đại hòa thượng”.

Tương truyền, mỗi khi ông đi xin ăn thì luôn có những đứa trẻ đi theo. Mọi người đều không biết những đứa trẻ ấy từ nơi nào đến, đuổi cũng không đi. Mùa hè nóng nực, Bố Đại hòa thượng tắm gội dưới suối, những đứa trẻ này vui đùa cùng với ông. Đương thời có một người giỏi vẽ tên là Lục Sinh đã vẽ chân dung Bố Đại hòa thượng trên vách tường của một ngôi chùa.

Bố Đại hòa thượng đi lại trong thế gian, giáo hóa rộng rãi. Khi thấy mệt thì ông sẽ tùy ý tìm một chỗ để nghỉ ngơi. Ông có một bài kệ rằng:

Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lí du
Thanh mục đổ nhân thiểu
Vấn lộ bạch vân đầu.

Tạm dịch nghĩa:

Một bát cơm ngàn nhà
Một mình đi vạn dặm
Mắt xanh ít người thấy
Hướng mây trắng hỏi đường.

Những câu này miêu tả chân thực cảnh ông đi vân du khắp thiên hạ và quảng kết thiện duyên.

Một cư sĩ họ Trần đã hỏi ông rằng phải làm thế nào để tránh rơi vào vòng xoáy nghị luận thị phi của người khác, hòa thượng Bố Đại đã hát tặng ông một bài kệ: “Nhẫn nhục kệ”. Đại ý của bài kệ là trên thế gian này thì thị phi yêu ghét rất nhiều, nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì có thể làm được gì? Nếu có thể mở rộng tấm lòng thì có thể nhẫn chịu được sự khuất nhục. Nếu có thể mở rộng tấm lòng thì hắc ám sẽ tiêu tan. Vô luận là đối với người tri kỷ hay đối với kẻ thù, có thể chung sống hòa thuận cùng nhau, trong tâm không bị yêu hận làm tổn thương hay phiền não thì thân tâm tự nhiên sẽ điềm đạm tự tại.

Bố Đại hòa thượng tuy rằng thường đi một mình, nhưng những người có con mắt tinh tường đều vô cùng cung kính với ông. Một hôm có người mời Bố Đại hòa thượng dùng bữa cơm chay xong, lại khẩn khoản mời ông ngủ lại nhà, dùng thái độ cung kính của đệ tử để đối đãi. Sáng sớm hôm sau, Bố Đại hòa thượng liền viết trên cổng nhà người này một bài kệ, đại ý nói rằng: Trên thân ông có một vị Phật nhưng trên đời không ai biết, vị Phật này không phải tạc tượng ra, không thể vẽ và cũng không thể trộm cắp được. Tâm thanh tịnh của Ngài sáng như mặt trời mặt trăng trên trời, tuy rằng là một thân thể nhưng lại có thể phân thân thành trăm ngàn triệu thân.

Ngày 3 tháng 3 năm Trinh Minh thứ hai đời Hậu Lương (năm 916), trước khi viên tịch, hòa thượng Bố Đại đã ngồi trên một tảng đá dưới hành lang phía đông chùa Nhạc Lâm và đọc câu kệ:

Di Lặc chân Di Lặc,
Phân thân thiên bách ức.
Thì thì kì thì nhân,
Thì nhân tự bất thức.

Tạm dịch nghĩa:

Di Lặc thật Di Lặc
Phân thân ngàn vạn ức
Luôn hiện ở thế nhân
Thế nhân không tự biết

Đọc xong câu kệ, Bố Đại hòa thượng bình yên viên tịch. Lúc này người ta mới nhận ra hòa thượng Bố Đại là hóa thân của Phật Di Lặc. Trước Bố Đại thì đã có hình tượng Phật Di Lặc rồi, đến lần hóa thân này lại để lại thêm một hình tượng nữa. Bởi vậy ngày nay rất nhiều tượng Phật Di Lặc mới có hình dáng của ông.

Hoa thuong Bo Dai 01
Tượng đồng Bồ tát Di lặc, khoảng thế kỷ thứ 7. (Ảnh: National Museum of Korea, Korea Open Government License)
Vài lần tượng Phật chảy nước mắt gắn liền với kiếp nạn tại Trung Quốc
Tượng Lạc Sơn Đại Phật là tượng Phật Di Lặc bằng đá cao nhất thế giới. (Ảnh: Ariel Steiner, Wikimedia, CC BY-SA 2.5)
Truyền kỳ về hòa thượng Bố Đại
Tượng Di Lặc tại Đài Loan dựa theo hình tượng của hòa thượng Bố Đại. (Ảnh: Lienyuan Lee, Wikipedia, CC BY 2.0 Deed)

Truyền kỳ về hòa thượng Bố Đại trong thời loạn thế đã để lại ngụ ý rất sâu xa. Chiếc túi vải theo hòa thượng Bố Đại đi lại khắp thế gian tựa hồ nhắc nhở mọi người, đem hết thảy những phiền não nơi thế gian bỏ vào trong túi, buông bỏ những ân oán thị phi trong tâm thì sẽ thu hoạch được phúc đức bất tận.

Bố Đại hòa thượng đã từng nói với người nông dân rằng: “Tay cầm mạ non trồng ruộng phúc, cúi đầu liền thấy trời trong nước”, ông đã dùng ngôn ngữ vô cùng đơn giản dễ hiểu để nói với con người thế gian, người vui vẻ cho đi chính là có thể không ngừng cấy ruộng phúc của chính mình. Khi cúi đầu, nhẫn chịu được oán khí trong tâm thì chính trong khoảnh khắc cúi đầu đó sẽ nhìn thấy được bầu trời rộng lớn phản chiếu trong nước. Bầu trời cao không thể với tới kia lại đang ở trong mắt của chính mình. Cho nên hòa thượng Bố Đại đã nói: “Lùi lại chính là tiến về trước”.

Năm Nguyên Phù thứ nhất thời Bắc Tống (năm 1098), Hoàng đế Tống Triết Tông đã phong hòa thượng Bố Đại làm “Định Ứng Đại Sư”. Năm Sùng Ninh thứ 3 (năm 1104), trụ trì chùa Nhạc Lâm quyên góp xây các, làm tượng Phật Di Lặc trong chùa, Hoàng đế Tống Huy Tông đã ban tên cho các là là “Sùng Ninh”. Trên ngọn núi Phi Lai Phong đối diện với chùa Linh Ẩn có trên 300 bức tượng đá được tạc từ đời Ngũ Đại đến nay, và bức tượng lớn nhất trong đó chính là tượng Phật Di Lặc lấy nguyên hình là hòa thượng Bố Đại hòa.

Truyền kỳ về hòa thượng Bố Đại
Tượng hòa thượng Bố Đại, khắc khoảng thế kỷ 11 trong hang núi của chùa Linh Ẩn tại Hàng Châu, Chiết Giang. (Ảnh: Mr. Tickle, Wikipedia, CC BY-SA 3.0 Deed)

Có một bức tranh cuối thời nhà Minh đầu thời nhà Thanh tên là “Thập tử náo Di Lặc đồ”. Phật Di Lặc trong bức tranh này có thân hình đẫy đà, phanh ngực hở bụng, miệng cười lớn. Tay phải của ngài cầm tràng hạt, ngồi dựa vào cái túi vải lớn. Chung quanh ngài là mười đứa trẻ với thần thái khác nhau, rất tinh nghịch đùa vui. Những đứa trẻ này, đứa thì ở trên vai Phật Di Lặc, đứa thì kéo tai ngài, đứa thì kéo gậy thiền trượng, đứa lại kéo tràng hạt của ngài. Lũ trẻ tinh nghịch vui đùa với Phật Di Lặc từ bi tường hòa khiến cho bức tranh trở nên sống động như thật.

Phật Di Lặc rộng lượng bao dung, nhẫn được những điều thế gian khó nhẫn, dứt được những ưu sầu của thế gian, luôn vui vẻ thoải mái. Nụ cười của ngài xóa tan mọi thị phi ân oán của thiên hạ từ xưa đến nay. Có lẽ chính điều này cũng khiến con người thế gian mỗi khi nhìn thấy hình tượng của ngài thì đều cảm thấy trong tâm vui vẻ, thoải mái vô cùng.

Theo Epoch Times tiếng Trung
Tác giả: Tạ Tú Thiệp
An Hòa biên tập

Xem thêm:

Mời xem video: