Luật pháp California ngày càng nghiêng về bảo vệ chủ nghĩa chuyển giới, theo đó đã lôi kéo các nhà giáo, cố vấn học đường, nhà trị liệu tâm lý và bác sĩ cuốn vào xu thế này, những phụ huynh và gia đình chống lại, được coi là “không an toàn” cho quá trình trưởng thành của con cái họ.

id14052572 a3129326797b66c0729f58d76904aca7 600x400 1
Chiều ngày 13/6/2023 tại Sacramento – California, người đứng đầu tổ chức “Trách nhiệm của chúng ta” (Our Duty) là cô Erin Friday đã phát biểu phản đối các phiên điều trần sắp tới của Ủy ban Tư pháp Thượng viện California về Dự luật AB957 và AB223 liên quan ủng hộ xu thế chuyển giới. (Ảnh chụp màn hình video)

Phụ huynh đấu tranh trong đơn độc

Trong quá trình kéo con gái mình trở lại từ trạng thái nhận thức về chuyển giới, Erin đã có trải nghiệm sâu sắc: “Việc các bậc phu huynh chống lại (trào lưu) là một quá trình khó khăn do Chính phủ, giáo viên không đồng tình họ, thậm chí cả bạn bè họ, không có ai giúp họ nên họ chỉ đành thuận theo”.

Được biết vấn đề “virus chuyển đổi giới tính” này đang lan rộng khắp nước Mỹ: trong phim hoạt hình, phim ảnh, sách, trang web về người chuyển giới, sách giáo khoa miễn phí và mạng xã hội.

Erin đã tìm kiếm nhà trị liệu và bác sĩ cho con gái nhưng hầu như tất cả những gì cô nghe được chỉ là: Phải tôn trọng nhu cầu chuyển đổi giới tính của trẻ, ngăn chặn có thể khiến trẻ tự tử.

Cô nói rằng thực tế là giáo viên và nhà trường có nhiều ảnh hưởng và cố gắng ngăn cản phụ huynh, khiến trẻ nhỏ ngày càng mâu thuẫn sâu sắc hơn với cha mẹ. Trong khi đó giáo viên thường chỉ thông báo cho phụ huynh về thành tích học tập của con họ, nhưng không thông báo về lựa chọn chuyển giới. “Cha mẹ và giáo viên là hai nhóm người lớn quan trọng nhất trong quá trình trưởng thành của trẻ, trẻ tin tưởng cả hai bên, khi hai nhóm này ‘cạnh tranh’ sẽ khiến trẻ không biết theo ai”, cô nói.

Với tư cách là bên thứ ba, các tổ chức chuyển giới trực tiếp “hướng dẫn” các em thay đổi. Pamrla Garfield-Jaeger, một nhà trị liệu và nhân viên xã hội từng làm việc cho một nhóm chuyển giới, đã đặt các tờ rơi sự kiện gần trường học mà không ghi thời gian hoặc địa điểm cụ thể, sau đó lên lịch cho bọn trẻ đến văn phòng sàng lọc để tham gia nhóm học về giới tính, họ yêu cầu bọn trẻ không được nói với cha mẹ, giáo viên hoặc ban giám hiệu nhà trường về hoạt động. Cô cho rằng mục đích điều đó giúp trẻ em tìm hiểu về bản thân mà không bị các thành viên trong gia đình gây trở ngại.

Thanh thiếu niên phải đối mặt với những thay đổi bình thường trong quá trình phát triển thể chất và dậy thì được phân loại là “phiền muộn hoặc nhầm lẫn giới tính”. Theo giáo viên Christ Lozano, là người có khuynh hướng trái chiều, cho rằng điều nguy hiểm nhất của loại chương trình giảng dạy này là một khi bộ não của trẻ em được đào tạo dẫn dắt theo một hướng nào đó thì thường chúng sẽ nghĩ theo hướng đó.

Một người chuyển giới cho biết, anh đã học được rằng nếu mắc chứng phiền muộn giới thì cách tốt nhất là thay đổi, nếu không sẽ không hạnh phúc và sẽ tự kết liễu đời mình. Anh cho hay “Tôi không thể chấp nhận con người của mình bây giờ nên phải phẫu thuật đau đớn và điều trị nội tiết tố”.

Nhưng những người xung quanh những người chuyển giới thuộc tuổi vị thành niên không nói với họ rằng tác dụng của liệu pháp hormone có thể kéo dài suốt đời, và phẫu thuật chuyển đổi giới tính có thể gây ra cho cơ thể những tổn thương không thể phục hồi cũng như bệnh tật đeo bám.

Thị trường phẫu thuật chuyển đổi giới tính tại Mỹ đang phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây. Theo báo cáo phân tích xu hướng, thị phần và quy mô thị trường phẫu thuật chuyển đổi giới tính của Mỹ và dự báo phân khúc thị trường từ năm 2022 – 2030, thị trường này dự kiến ​​sẽ đạt 5 tỷ USD vào năm 2030, với tốc độ tăng trưởng phẫu thuật ghép hàng năm là 11,23 %.

Tại California, nếu cha mẹ không đồng ý cho con chuyển giới, họ thậm chí sẽ bị coi là kẻ ngược đãi trẻ em và không được làm người giám hộ, trẻ có thể bị gửi cho các gia đình có nhu cầu nuôi dưỡng – đây là điều ghi trong Dự luật AB957 được Hạ viện bang thông qua và đang chờ đọc lần thứ ba tại Thượng viện bang. Dự luật AB957 xác định lại phúc lợi của trẻ, theo đó coi cái gọi là “sức khỏe, phúc lợi, an toàn” và hỗ trợ cho bản sắc và thể hiện giới tính của trẻ em là vì lợi ích tốt nhất của chúng.

“Nó có thể dẫn đến các cuộc chiến giành quyền bảo hộ con cái, buộc cha mẹ phải đồng ý cho con cái họ chuyển đổi giới tính”, cô Erin đã làm chứng trước cơ quan lập pháp bang rằng họ biết sự nguy hiểm của thuốc ức chế tuổi dậy thì, hormone chuyển giới và phẫu thuật chuyển đổi giới tính, vì vậy không thể tự cho mình là không biết gì để điều đó diễn ra vì mục đích bất chính.

Là một đảng viên Đảng Dân chủ đã đăng ký trong 37 năm, cô nói: “Tôi đã bỏ phiếu cho những người thúc đẩy những luật làm tổn thương trẻ em, họ không quan tâm đến con cái của chúng ta. Thật đau lòng khi chúng ta bị thông báo hãy quên cô con gái mà bạn đã nuôi dạy và chấp nhận rằng bé ấy là con trai”.

Tranh cãi trong nghiên cứu khoa học về “người chuyển giới”

Ở California, một nghiên cứu của Diane Ehrensaft, giám đốc sức khỏe tâm thần tại Trung tâm Giới tính Trẻ em và Vị thành niên tại UC San Francisco, đã phát hiện ra rằng nếu trẻ em bị ngăn cản trong quá trình chuyển đổi, tỷ lệ tự tử của chúng sẽ là 41%; nhưng nghiên cứu ngược lại cho thấy, hầu hết thanh thiếu niên trải qua “chứng phiền muộn giới tính” trong thời niên thiếu sẽ trở lại bình thường trong quá trình trưởng thành mà không chọn chuyển đổi giới tính.

Diane Ehrensaft cho biết nếu một cô bé gỡ những chiếc kẹp ra khỏi tóc, thì cô bé đang ở lúc phiền muộn về giới tính. Nhưng Erin và một nhà trị liệu đã nói về việc con gái cô rất nữ tính khi còn nhỏ, còn người thúc đẩy chuyển giới lại khẳng định: “Chà, con gái của bạn đang che giấu giới tính thật” – tuyên bố khiến Erin thấy thật nực cười.

Truy nguyên nguồn gốc, lý luận về bản sắc giới tính (gender identity) đã được đề xuất vào năm 1964 bởi Robert J. Stoller, giáo sư tâm thần học tại Trường Y khoa UCLA và là nhà nghiên cứu tại Phòng khám Nhận dạng Giới tính. Nhà tâm lý học tình dục học John Money đã mở rộng lý thuyết về sự trung lập của giới tính, ông cho rằng con người sinh ra là trung tính, theo đó giới tính có thể lựa chọn và thúc đẩy sau này.

Trong bộ phim tài liệu “Chuyển đổi giới tính: Thực tế chưa được kể”, bác sĩ tâm thần, tác giả và diễn giả Miriam Grossman cho hay, “Thí nghiệm của Money đã cho thấy lý thuyết của ông ấy thất bại thảm hại”.

Một trong hai anh em sinh đôi là David bị mất dương vật lúc 7 tháng tuổi sau khi ca cắt bao quy đầu thất bại. Vợ chồng Raimer tìm đến Money để đề nghị nuôi dạy David như một bé gái và tiến hành phẫu thuật xác định lại giới tính. Khi David được 22 tháng, David đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn hai bên để ngừng sản xuất nội tiết tố nam.

Năm 1972, khi David 7 tuổi, Money đã công bố thí nghiệm “thành công” này, điều đó khiến nhiều bậc cha mẹ lựa chọn phẫu thuật chuyển đổi giới tính và điều trị bằng thuốc cho con cái họ. Theo cuốn sách “Tự nhiên đã xác định cậu ấy – một bé trai lại được dưỡng dục như bé gái” (As Nature Made Him – The Boy Who was Raised as a Girl) xuất bản năm 2000, tác giả là nhà báo John Colapinto, lúc bấy giờ mỗi năm tại Mỹ có hàng trăm đứa trẻ phẫu thuật xác định lại giới tính, trong khi trên toàn thế giới có trên nghìn trường hợp.

David đã luôn dùng estrogen [hormone sinh dục nữ], còn Money đã thuyết phục gia đình Raimer cho cậu bé phẫu thuật chuyển đổi giới tính từ năm 8 tuổi. Nhưng vào khoảng năm 12 tuổi thì David vẫn phát triển các nét nam tính với giọng trầm hơn, vai rộng hơn và khối lượng cơ bắp tăng lên, giống như người em song sinh. Một nhóm nghiên cứu về vai trò của hormone trong quá trình phân biệt giới tính ở người đã khẳng định, rằng những người có nhiễm sắc thể xx sẽ phát triển thành phụ nữ, trong khi những người có nhiễm sắc thể xy sẽ phát triển thành nam giới, gen bẩm sinh của mỗi người đóng vai trò quan trọng.

Vào năm 14 tuổi thì David biết được sự thật từ cha mẹ, cậu quyết định trở lại làm con trai, vì thế đổi tên và trong nhiều năm trải qua nhiều cuộc phẫu thuật để trở lại thành đàn ông.

Năm 1979 sau khi BBC đưa tin rằng David đã trở lại với bản tính con trai thì giáo sư Money ngừng phát biểu công khai, nhưng không rút lại hay sửa đổi trường hợp “thành công” của mình. Đến năm 1999 (gần hai thập niên sau khi David trở lại với bản chất nam tính), Money trong một chuyên khảo tóm tắt sự nghiệp vẫn nhấn mạnh giới tính của một người được tạo ra [nhân tạo].

Năm 1975, khi David biết rằng mình không phải trường hợp cá biệt và trường hợp của anh có tác động lớn đến hàng ngàn ca phẫu thuật xác định lại giới tính, anh đã hợp tác với giáo sư Milton Diamond tại Đại học Hawaii để công khai trường hợp của mình. Bài báo khoa học của Diamond được xuất bản hai năm sau đó và được xem là “quá gây tranh cãi”, nguyên nhân vì lý thuyết và thí nghiệm của Money trước đó đã được trích dẫn và chấp nhận rộng rãi trên thế giới.